Archive | August 2019

ĐHY Achille Silvestrini về Nhà Cha

DHY Achille

 

ĐHY Achille Silvestrini, 95 tuổi, nhân vật lỗi lạc trong ngành ngoại giao của Tòa Thánh, đã được Chúa gọi về Nhà Cha ngày 29/8/2019.

ĐHY Achille Silvestrini, nguyên là Tổng trưởng Bộ các Giáo hội Đông phương, đã qua đời tại Roma sau thời gian trị bệnh tại bệnh viện Gemelli. Ngài đã dành cả cuộc đời để phục vụ Giáo hội và Đức Giáo Hoàng. Ngài luôn quan tâm đến con người, đặc biệt là người trẻ.

Thời linh mục

ĐHY Silvestrini sinh năm 1923 tại Brisighella, giáo phận Faenza Sau khi chịu chức linh mục vào năm 1946, ĐHY Silvestrini theo học Văn chương và Triết học tại đại học Bologna và tốt nghiệp về văn chương cổ điển. Sau đó ngài đến Roma, học tại đại học Giáo hoàng Laterano và tốt nghiệp tiến sĩ lưỡng luật.

Phục vụ trong ngành ngoại giao Tòa Thánh

Năm 1952, ngài gia nhập trường Ngoại giao Tòa Thánh và bắt đầu phục vụ tại phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh, phụ trách về Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia và cách chung về các nước Đông Nam Á. Ngài còn phục vụ trong ngành ngoại giao Tòa Thánh với các chức vụ và vai trò khác nhau. Năm 1973, ngài được bổ nhiệm làm Thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh và đảm nhiệm vai trò Quốc vụ khanh Tòa Thánh vào ngày 4/5/1979.

Cùng năm 1979 ngài được ĐGH Gioan Phaolo II bổ nhiệm làm Tổng Giám mục. Trong vai trò mới, ngài đã dẫn đầu phái đoàn Tòa Thánh xem xét Hiệp định Laterano. Ngài cũng là đặc sứ Tòa Thánh tại nhiều sự kiện khác nhau ở các nước Tây Ban Nha, Malta, Argentina, Nigeria, vv.

Hồng y đoàn

Năm 1988, ngài được ĐGH Gioan Phaolo II thăng làm Hồng y trong Công nghị Hồng y ngày 28/6 và sau đó được bổ nhiệm làm Chánh tòa ân giải tối cao. Năm 2000, ngài được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ các Giáo hội Công giáo Đông phương.

Với sự qua đi của ĐHY Silvestrini, Hồng y đoàn còn tất cả 215 vị, trong đó có 118 vị dưới 80 tuổi có quyền bầu Giáo hoàng và 97 vị trên 80 tuổi không còn quyền bầu Giáo hoàng.

Hai Giám mục Trung quốc đầu tiên được tấn phong sau hiệp định giữa Vatican và Trung quốc

2-chinese-bishops

 

Ngày 26/8, cha Antôn Diêu Thuận (Yao Shun), 54 tuổi, thuộc giáo phận Tể Ninh, đã được tấn phong Giám mục tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Mân Côi ở thành phố Tể Ninh, vùng Nội Mông, làm Giám mục giáo phận Tể Ninh. Và ngày 28/8, cha  Stephano Từ Hoằng Vĩ (Xu Hongwei), thuộc giáo phận Hán Trung (HanZhong), tỉnh Thiểm Tây (Shaanxi), Trung Quốc, đã được tấn phong Giám mục, được bổ nhiệm làm Giám mục phó giáo phận Hán Trung.

Đức cha Diêu Thuận

Chủ tế Thánh lễ tấn phong Giám mục cho cha Antôn Diêu Thuận là Đức cha Phaolô Mạnh Thanh Lộc (Meng Qinglu), phó hội Công giáo yêu nước Trung quốc; cùng đồng tế với ngài có một số giám mục và khoảng 120 linh mục. Cũng có khoảng 1000 giáo dân tham dự Thánh lễ.

Đức cha Diêu Thuận sinh năm 1965 và sau khi được thụ phong linh mục vào năm 1991, ngài đã dạy học tại chủng viện quốc gia ở Bắc Kinh. Từ năm 1994-1998, ngài học phụng vụ tại đại học thánh Gioan ở New York và cũng học Kinh Thánh một thời gian ở Giêrusalem.

Ngài cũng đã là tổng đại diên của giáo phận và được các thành viên của giáo hội Trung quốc bầu chọn ngày 9/4. Dù là Giám mục đầu tiên được tấn phong sau hiệp định tạm thời giữa Vatican và Trung quốc, nhưng thực tế là ngài đã được Vatican bí mật chấp thuận từ năm 2010.

Giáo phận Tể Ninh có khoảng 70 ngàn giáo dân, được hướng dẫn bởi 31 linh mục và 12 nữ tu. Giáo phận trống tòa từ khi Đức cha Gioan Lưu Thế Công qua đời vào năm 2017.

Đức cha Từ Hoằng Vĩ

Đức cha Từ Hoằng Vĩ, 44 tuổi, thụ phong linh mục năm 2002. Ngài đến Roma học và đậu cao học về thần học mục vụ. Sau đó ngài phục vụ tại giáo phận Vancouver ở Canada cho đến năm 2010.

Đức cha được Tòa Thánh chấp thuận là ứng viên Giám mục từ ngày 11/4 vừa qua nhưng phải đợi vài tháng để được chính quyền chấp thuận. Thánh lễ được cử hành tại nhà thờ chính tòa Thiên thần Micae với sự tham dự của khoảng 500 người.

Giáo phận Hán Trung có 27 linh mục, 8 nữ tu và một chủng sinh, phục vụ cho 20 ngàn tín hữu Công giáo tại 21 giáo xứ.

 

Vaticannews.va

Tội cố tình làm sai lệch luật phụng vụ

US Pope Francis

PopeFrancis-02Oct2015-7

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ và thần học Bí tích, Giám đốc Viện Sacerdos tại Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Liệu là sai về luân lý chăng, khi cố tình làm sai lệch luật phụng vụ? Phạm tội như thế được đánh giá thế nào? – R. C., Bangalore, Ấn Độ.

Đáp: Đây là một câu hỏi rất khó trả lời, và đòi hỏi nhiều cấp độ và một số phân biệt tinh tế.

Từ quan điểm khách quan, một sự sai lệch trong phụng vụ có thể bao gồm từ một lỗi nghi thức nhẹ, đến sự lạm dụng lớn làm cho buổi lễ không hợp lệ và thậm chí là phạm thánh nữa.

Câu hỏi về khả năng phạm tội luân lý cũng là một câu hỏi hóc búa, vì nó phụ thuộc cả vào thực thể khách quan của sự sai lệch, và thái độ chủ quan mà nó được thực hiện.

Lỗi chất thể tương tự trong phụng vụ có thể được gây ra bởi sự thiếu hiểu biết, do một sự huấn luyện không đầy đủ, hoặc do biết nhưng cố tình không tuân theo các quy định phụng vụ. Do đó, khả năng phạm tội luân lý chủ quan sẽ tương ứng theo một cách nào đó với nhận thức và sự chủ ý của hành động.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự thiếu hiểu biết có thể góp phần vào khả năng phạm tội. Chẳng hạn, ít nhất là trong các vấn đề phụng vụ quan trọng, một linh mục không nên biện hộ cho sự thiếu hiểu biết, vì nhiệm vụ của linh mục là phải biết cách thực hiện các nghi thức phụng vụ chính yếu một cách đúng đắn. Linh mục có lẽ không nhận thức được một số quy định tóm tắt được giấu trong sách chuyên môn, nhưng ngài sẽ có lỗi nếu thiếu kiến thức về các nhiệm vụ thừa tác cơ bản của mình.

Sự phán đoán về khả năng phạm tội chủ quan do sự lệch lạc phụng vụ là chủ yếu một câu hỏi về lương tâm, vì chỉ có con người phạm sai lầm, đôi khi nhờ sự hướng dẫn của vị linh hướng hoặc cha giải tội, mới có thể biết thái độ nội tâm của mình tại thời điểm hành động được thực hiện. Khả năng phạm tội luân lý này có thể xếp từ không có tội cho một sai lầm nhỏ, đến tội nặng cho một sự lạm dụng cố ý.

Trong một số tình huống, người thực hiện hành vi lạm dụng sẽ công khai biểu lộ các lý do nằm bên dưới hành động, và điều này có thể làm giảm bớt hoặc làm trầm trọng thêm lỗi phạm. Thí dụ, tôi biết một linh mục được gửi đến một cộng đồng miền núi biệt lập, nơi đó Thánh lễ hiếm khi được cử hành do việc di chuyển phải mất nhiều giờ. Cha đến một nhà thờ đầy giào dân đang chờ, nhưng không có chén thánh trong phòng thánh. Cha sử dụng một chén tốt nhất mà cha có thể tìm thấy, nhưng nói với mọi người rằng cha đang làm điều đó như một ngoại lệ, và đó không phải là điều đúng để làm. Trong một bối cảnh hoàn toàn khác, cách nay vài năm, một linh mục châu Âu đã vi phạm nghiêm trọng luật phụng vụ, trong khi tuyên bố trước các người quay phim rằng cha biết những gì cha đang làm là vi phạm, nhưng cha đang hành động vì lý do ý thức hệ, vốn là trái với giáo lý Công Giáo.

Liên quan đến sự phán đoán khách quan các hành vi lạm dụng phụng vụ, có lẽ tài liệu xử lý triệt để nhất đối với chủ đề này là Huấn thị Redemptionis Sacramentum (Bí tích Cứu độ) năm 2004. Cuối tài liệu này, trong Chương VIII, Huấn thị đưa ra một số gợi ý để xác định mức nghiêm trọng, và đâu là “các sửa chữa” như Huấn thị gọi tên. Xin mời đọc:

“169. Khi có một lạm dụng trong việc cử hành Phụng Vụ thánh, thì phải nhìn nhận đó là một sự làm sai đi thật sự phụng vụ Công Giáo. Thánh Tôma đã viết: “Ai thay mặt Giáo Hội hiến dâng cho Thiên Chúa một sự thờ phượng đi ngược với những hình thức mà Giáo Hội tự quyền Thiên Chúa đã thiết lập và chính Giáo Hội này thực hành, thì mắc lỗi giả mạo”.

“170. Để sửa chữa các lạm dụng đó, “công việc khẩn cấp nhất là đào tạo dân Thiên Chúa, mục tử và tín hữu, về mặt kinh thánh và phụng vụ”, để đức tin và kỷ luật của Giáo Hội liên quan đến Phụng Vụ thánh, được trình bày và lĩnh hội một cách đúng đắn. Tuy nhiên, nơi nào mà các lạm dụng vẫn tồn tại, thì phải hành động theo các quy tắc của giáo luật, để bảo toàn di sản thiêng liêng và những quyền của Giáo Hội, nhờ vào tất cả phương tiện chính đáng.

“171. Trong những điều lạm dụng khác nhau, xét về mặt khách quan, có phần là những graviora delicta (những tội phạm nặng hơn), có phần là những chất thể nặng và những lạm dụng khác nữa phải được quan tâm xa tránh và sửa chữa cẩn thận. Ngoài tất cả những gì được đề cập chính yếu trong Chương I của Huấn Thị này, phải ân cần quan tâm đến những điều quy định sau đây.

“1. NHỮNG GRAVIORA DELICTA (TỘI PHẠM NẶNG HƠN)

“172. Các graviora delicta nghịch cùng Hy Tế rất đáng kính và bí tích Thánh Thể phải được giải quyết theo theo “Quy tắc liên quan đến những graviora delicta dành cho Bộ Giáo Lý Đức Tin”, là :

a) lấy hay giữ Mình Máu Thánh Chúa với mục đích phạm thánh, hoặc ném Mình Máu Chúa xuống đất ;

b) không phải là linh mục mà dám cử hành phụng vụ Hy Tế Thánh Thể, hay giả bộ cử hành;

c) đồng tế hy tế thánh thể, dù đã có lệnh cấm, với các thừa tác viên của các Cộng Đoàn giáo hội không có kế thừa các tông đồ và không nhìn nhận phẩm cách bí tích của việc truyền chức linh mục ;

d) truyền phép với mục đích phạm thánh một chất thể này mà không có chất thể kia trong cử hành Thánh Thể, hoặc truyền phép cả hai chất thể ở ngoài cử hành Thánh Thể.

“2. NHỮNG CHẤT THỂ NẶNG

“173. Tính trầm trọng của một chất thể được lượng giá trên căn bản giáo lý chung của Giáo Hội và tùy theo những quy tắc mà Giáo Hội đã thiết lập. Trong những chất thể nặng, người ta luôn luôn kể đến cách khách quan những chất thể làm cho tính thành sự và phẩm cách của Phép Thánh Thể Chí Thánh lâm nguy, nghĩa là những chất thể nghịch lại với các quy tắc được trình bày trên đây trong các số 48-52, 56, 76-77, 79, 91-92, 94, 96, 101-102, 104, 106, 109, 111, 115, 117, 126, 131-133, 138, 153 và 168. Vả lại, phải quan tâm đến các quy định khác của Bộ Giáo Luật, và đặc biệt, đến những quy định có trong các điều 1364, 1369, 1373, 1376, 1380, 1384, 1385, 1386 và 1398.

“3. NHỮNG LẠM DỤNG KHÁC

“174. Hơn nữa, các hành vi phạm đến những gì được nêu ở những đoạn khác của Huấn Thị này và trong những quy tắc được giáo luật thiết lập, không được xem là không đáng kể hơn, nhưng chúng phải được kể trong số những lạm dụng khác phải xa tránh và phải ân cần sửa chữa.

175. Rõ ràng là tất cả những gì đã được trình bày trong Huấn Thị này, không có liên quan đến tất cả những vi phạm đến Giáo Hội và đến kỷ luật của Giáo Hội, đã được xác định trong các điều của giáo luật, trong các luật phụng vụ và trong các quy tắc khác của Giáo Hội, theo giáo lý của Huấn Quyền hay theo truyền thống lành mạnh. Nơi nào có mắc bất cứ điều sai nào, thì điều sai đó phải được sửa chữa theo các quy tắc của giáo luật.

“4. GIÁM MỤC GIÁO PHẬN

“176. Giám Mục giáo phận, “vì là người phân phát chính yếu mọi mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài hãy hoạt động không ngừng để mọi tín hữu đã được giao phó cho ngài săn sóc, được tăng trưởng trong ơn thánh nhờ việc cử hành các bí tích, và để cho họ nhận biết và sống mầu nhiệm vượt qua”. Vậy, ngài có quyền, “trong giới hạn thẩm quyền của ngài, ban hành các quy luật về phụng vụ, buộc mọi người phải giữ”.

“177. “Xét vì ngài có nghĩa vụ bảo vệ sự duy nhất của Giáo Hội phổ quát, Giám Mục phải cổ võ kỷ luật chung của toàn thể Giáo Hội và vì thế phải thôi thúc việc tuân hành mọi luật lệ của Giáo Hội. Ngài phải đề phòng đừng để du nhập các lạm dụng kỷ luật trong Giáo Hội, nhất là về thừa tác vụ Lời Chúa, việc cử hành các bí tích và á bí tích, việc tôn kính Thiên Chúa và các thánh”.

“178. Vì thế, mỗi khi Đấng Bản Quyền sở tại hay của một Hội Dòng tu sĩ hoặc của một Tu Hội tông đồ biết được, ít nữa là có lẽ thực, về một tội phạm hay một lạm dụng phạm đến Phép Thánh Thể Chí Thánh, thì chính ngài hoặc nhờ một giáo sĩ khác xứng hợp, phải thận trọng điều tra, về các sự kiện, hoàn cảnh, cũng như về khả năng quy trách nhiệm của hành vi.

“179. Những tội phạm nghịch cùng đức tin, cũng như những graviora delicta phạm khi cử hành Thánh Thể và các bí tích khác, phải được giao ngay cho Bộ Giáo Lý Đức Tin “xét xử và, cùng lúc, tuyên bố hay bắt chịu những hình phạt của giáo luật theo các quy tắc của luật chung hay luật riêng”.

“180. Mặt khác, Đấng Bản Quyền phải tiến hành theo các quy tắc của giáo luật, bằng cách áp dụng, nếu có, những hình phạt theo giáo luật, và, đặc biệt, nhớ lại những quy định của điều 1326 của Bộ giáo luật. Nếu là những hành vi nặng, ngài phải thông báo cáo cho Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích.

“5. TÔNG TOÀ

“181. Mỗi khi Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích biết được, ít nữa là có lẽ thực, về một tội phạm hay một lạm dụng phạm đến Phép Thánh Thể Chí Thánh, Bộ thông báo cho Đấng Bản Quyền hay, để vị này làm điều tra về sự việc. Nếu hành vi đang nói đến được xác nhận là nặng, Đấng Bản Quyền, càng sớm càng tốt, phải gởi về Bộ này một bản về các hành vi liên quan đến cuộc điều tra đã làm, và, có thể, đến hình phạt đã bắt chịu.

“182. Trong những trường hợp khó khăn nhất, vì lợi ích của Giáo Hội hoàn vũ, mà chính ngài cũng chia sẻ việc chăm sóc bằng việc ngài chịu chức thánh, Đấng Bản Quyền không được chểnh mảng giải quyết vấn đề, sau khi đã tham khảo ý kiến của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích. Về phần mình, chính Bộ này, căn cứ vào những quyền hạn mà Đức Giáo Hoàng Rôma đã ban cho mình, phải giúp đỡ Đấng Bản Quyền, tuỳ trường hợp, bằng cách nhường cho ngài những miễn chuẩn cần thiết, hay thông báo cho ngài những huấn thị và những quy định mà ngài phải áp dụng cách chu đáo.

“6. NHỮNG KHIẾU NẠI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC LẠM DỤNG VỀ PHỤNG VỤ

“183. Tuỳ theo khả năng của mỗi người, tất cả đều có bổn phận quan tâm đặc biệt để Phép Bí Tích Thánh Thể Chí Thánh được bảo vệ khỏi mọi bất kính và mọi biến dạng, và để mọi lạm dụng được hoàn toàn sửa chữa. Bổn phận này, bổn phận quan trọng nhất, được ủy thác cho mọi người và mỗi thành viên của Giáo Hội, phải được thực hiện mà không thiên vị ai.

“184. Mọi người Công Giáo, dù là linh mục, phó tế hay giáo dân, được nhìn nhận có quyền tố cáo một lạm dụng nào đó về phụng vụ, nơi Giám Mục giáo phận hay Đấng Bản Quyền có thẩm quyền được giáo luật nhìn nhận, hay nữa nơi Tông Toà vì tối thượng quyền của Đức Giáo Hoàng Rôma. Tuy nhiên, nên có hết sức trình bày trước cho Giám Mục giáo phận việc khiếu nại hay tố cáo ấy. Điều đó phải luôn luôn được thực hiện trong tinh thần chân lý và bác ái” (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam). (Zenit.org 20-8-2019)

Nguyễn Trọng Đa

vietcatholic 20.08.2019/ zenit.org

Đức Mẹ hồn xác lên trời

Duc Me hon xac

Kinh Thánh có nói về một số trường hợp những người được hồn xác lên trời như Hênoc (Dt 11,5), tiên tri Êlia (2 V 2,11), Môsê (Gđ câu 9), Chúa Giêsu (Cv 1, 9-11). Kinh Thánh không hề nói đến Đức Mẹ hồn xác lên trời. Vậy Giáo Hội chỉ ức đoán?

a. Trường hợp ông Môsê

Người hỏi đã dựa vào Kinh Thánh để nêu lên vài trường hợp những người được lên trời. Nhưng thư thánh Giuđa đâu có nói gì về việc lên trời của ông Môsê. Câu 9 viết: “Còn Mi-ca-en Tổng lãnh Thiên thần, khi Ngài đàm phán với quỉ, tranh biện về thi thể ông Môsê, thì đã không buông lời đàn hặc phỉ báng, nhưng chỉ nói “xin Chúa trừng trị ngươi”.
Sách Đệ nhị luật nói rõ Môsê đã chết và được chôn cất trên núi Nêbô trong xứ Môab: “Môsê, tôi tớ Giavê đã chết ở đó, trong xứ Moab, trước mặt Bet-peer, nhưng không ai biết được mộ ông cho đến ngày nay” (Đnl 34,6 ; xem thêm Ds 26,12-14). Sự kiện sau này người ta không tìm ra mộ Môsê, đã làm cho một số người nghĩ rằng ông đã được lên trời (xem quyển ngoại thư “Cuộc lên trời của ông Môsê”).

b. Hênoc, Elia và Chúa Giêsu

Chúng ta cũng phải phân biệt những cuộc lên trời mà sách Cựu Ước kể về trường hợp Hênoc, Êlia với trường hợp của Chúa Giêsu. Về Hênoc thì thư Do thái nói là ông “được dời đi nơi khác để khỏi thấy cái chết” (Dt 11,5). Còn về Êlia thì Kinh Thánh nói là ông “được lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2,11). Cho tới nay Giáo Hội không tuyên bố gì về việc Hênoc và Êlia hiện nay ở trong tình trạng nào. Dẫu sao họ cũng còn thuộc về thời Cựu ước, tức là thời chờ đợi.
Đàng khác chúng ta biết chắc rằng trường hợp sống lại và lên trời của Chúa Giêsu là trường hợp tiên khởi, vì thánh Phaolô đã khẳng định: Đức Kitô là “truởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại ” (Cl 1,18), hoặc “Đức Kitô sống lại từ cõi chết, tiên thường của các vong linh” (1 Cr 15,20). Việc lên trời của Đức Giêsu mà sách Công vụ nói tới (Cv 1,9-11) thực ra là lần hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu phục sinh. Từ nay Người không còn hiện diện bằng hình dáng thể xác nữa, nhưng bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Việc lên trời của Đức Maria phải được hiểu theo nghĩa sau: sự kiện quan trọng không phải là được dời đi một chỗ nào khác, cho dẫu là trên làn mây, nhưng là được tham dự cả hồn cả xác vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô như lời Đức Thánh Cha Piô XII tuyên bố: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Đấng Vô Nhiễm Thai, trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống ở trần gian, đã được nâng lên, cả hồn cả xác, về hưởng vinh quang thiên quốc” (x. Foi Catholique số 410; Hiến chế Giáo Hội số 59).
c. Nền tảng Kinh Thánh của tín Điều

Tuy Kinh Thánh không diễn tả một cách minh nhiên việc Đức Maria lên trời, nhưng tín điều này có nền tảng vững vàng trong Kinh Thánh. Trong sách Sáng thế, Giavê đã tiên báo với con rắn về cuộc chiến của Đấng Cứu Thế, sinh ra từ một người đàn bà (St 3,15). Tác giả sách Khải huyền cũng đã miêu tả cuộc chiến đấu và cuộc khải hoàn của người đàn bà nhờ con của mình là Đấng Cưú Thế (Kh 12). Lẽ dĩ nhiên “người đàn bà mặc áo mặt trời ấy” trước hết là Sion, là toàn Dân Chúa trong ngày cánh chung. Tuy nhiên thánh Luca (Lc 1,28: “Hãy vui lên”), nhắc lại lời chào của Xôphônia 3,14-17 (“reo vui lên! nữ tử Sion!… có ở giữa ngươi, Giavê Thiên Chúa của ngươi, Anh Hùng vạn thắng”) gợi ý cho ta thấy rằng Đức Maria là “Nữ tử Sion”, là hiện thân của toàn Dân Chúa để đón nhận “Anh Hùng Vạn Thắng”, tức là Đấng Cứu Thế. Bà là thành phần hoàn hảo nhất của Dân Chúa, để tiếp nhận Đấng mang ơn cứu độ cho loài nguời. Trong cụ thể, sách Tin Mừng của Luca và của Gioan cho thấy Đức Maria, với tư cách là Mẹ Đồng trinh của Chúa Giêsu đã kết hiệp chặt chẽ với Con mình trong mọi sự từ giây phút truyền tin (Lc 1,26-38) cho đến lúc Chúa chết trên Thập Giá (Ga 19,25). Và bởi vì Đức Maria đã hợp nhất với Chúa Giêsu như thế trong tâm hồn, bằng một đức tin tuyệt vời qua lời “xin vâng” (Lc 1,38), và trong thể xác bằng sự cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng Chúa Giêsu và bằng sự hiệp thông trong đau khổ, nên Giáo Hội vững tin rằng Đức Maria, cả trong tâm hồn và trong thể xác, đã được tham dự trọn vẹn vào vinh quang Phục sinh của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Người.

d. Truyền thống

Từ thế kỷ II, các thánh Giáo Phụ đặc biệt là thánh Giustinô và thánh Irênê, đã trình bày Đức Maria như Eva mới luôn luôn tuân phục và kết hiệp với Adam mới là Chúa Kitô (Rm 5,14-17; 1 Cr 15,21-23) trong cuộc chiến đấu cũng như trong khải hoàn.
Tại Giêrusalem đã có nhà thờ dâng kính Đức Mẹ lên trời vào giữa thế kỷ V. Giáo hội Đông Phương đã mừng lễ “An giấc” (Dormition) của Đức Maria vào cuối thế kỷ VI. Đối với anh em Chính Thống Giáo lễ này gồm có sự chết, an táng, sống lại và lên trời của Đức Mẹ. Lễ Đức Mẹ lên trời đã được cử hành tại Rôma vào giữa thế kỷ VII.

Sau 15 thế kỷ, không một nhà thần học nào trong Giáo Hội đã phản đối niềm tin này. Nhận thấy niềm tin này là một sự kiện phổ quát, càng ngày càng lan tỏa sâu rộng trong tâm hồn các tín hữu, nên Đức Thánh Cha Piô XII, nhân danh quyền bính của Chúa Kitô và của các Tông đồ, đã long trọng tuyên bố là một tín điều ngày 1 tháng 11 năm 1950.
Công Đồng Vaticanô II cũng đã nhắc lại đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời trong hiến chế về Giáo Hội:
“Sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết” (Hc. Giáo Hội số 59).

(Norberto, ofmvn.org)