Rút phép thông công
Gần đây, trong phần phản hồi ở một bài trên mạng Nữ Vương Công lý, một độc giả muốn hỏi về trường hợp bị rút phép thông công. Độc giả ấy muốn biết rút phép thông công là gì, khi nào thì bị rút và ai có quyền này.
Thấy ước muốn của độc giả đó đáng lưu tâm nên tôi tìm xem lại giáo luật và thấy có thể nói đại khái về việc rút phép thông công như sau, để giúp làm sáng tỏ vấn đề, hầu giải tỏa được vài mối lo sợ ám ảnh tâm trí một số người. – Linh mục Anre Đỗ Xuân Quế. O.P
1. Rút phép thông công là gì ?
Rút phép thông công là kiểu nói bình dân để nói về những vạ được bàn tới trong Giáo luật. Trong bộ luật này có nhiều vạ dành riêng cho từng giới. Nặng hơn cả là vạ rút phép thông công. Theo từ chuyên môn của Giáo luật thì vạ này là vạ tuyệt thông. Tuyệt thông là hình phạt Hội thánh dành cho tín hữu nào lỗi phạm trầm trọng những điều ghi trong Giáo luật. Người bị vạ tuyệt thông không được hòa nhập cùng Hội thánh, không được xưng tội rước lễ, tham dự các lễ nghi và hưởng nhờ các ơn phúc thiêng liêng Hội thánh dành cho con cái mình và nếu là linh mục thì bị huyền chức và bị thải hồi về bậc giáo dân trong những lỗi phạm quá tai tiếng.
Trong những thế kỷ đầu, tín hữu nào phạm tội giết người, bỏ đạo, ngoại tình thì bị tuyệt thông. Những tội này thuộc loại peccatum mortale (tội chết người), còn những tội khác như bỏ lễ ngày Chúa nhật, không ăn chay kiêng thịt vào những ngày buôc, lỡi đức trong sạch cách nặng về điều răn thứ sáu v.v… là peccatum grave (tội nặng). Những ai phạm tội thuộc loại « chết người » thì phải làm việc đền tội công khai (thường là nặng) như mặc áo nhặm, đứng ở ngoài nhà thờ trong khi những người khác dự lễ bên trong. Sau một thời gian, nếu các bạn đồng đạo thấy người ấy đã sửa mình thì trình lên đức cha. Đức cha duyệt xét rồi nếu thấy đủ điều kiện, ngài sẽ làm một nghi thức hoà giải vào chiều ngày Thứ Năm trong Tam nhật Vượt qua, cho người ấy tái nhập cộng doàn. Và khi đó là hết bị phạt vạ tuyệt thông.
Mục đích của vạ tuyệt thông hồi xưa cũng như bây giờ là mở đường cho người sai lỗi trở lại giao hòa cùng Thiên Chúa qua trung gian Hội thánh. Lỗi của họ làm gương xấu cho người khác, gây nguy hiểm về đức tin cho nhiều người nên phải dùng biện pháp này để ngăn ngừa ảnh hưởng khốc hại, khi không còn giải pháp nào khác để giúp phạm nhân qui chính. Tuy nhiên, tinh thần và mục đích của việc phạt vạ vẫn là kêu mời người sai lỗi cải quá tự tân theo lối của các nhà mục tử (pastores) chứ không phải thái độ của những người đánh phạt (percussores).
2. Khi nào thì bị rút phép thông công ?
Khi sai phạm những lỗi nặng được kê khai trong Giáo luật. Theo bộ luật năm 1917 có tới 37 vạ tuyệt thông. Nhưng theo bộ luật năm 1983, hiện nay chỉ còn 7 vạ theo các chỉ thị của Công đồng Va-ti-ca-nô II. Đó là :
2.1 Xúc phạm đến Mình Thánh Chúa
2,2 Đả thương ĐGH
2.3 Giải tội cho người đồng phạm về điều răn thứ sáu
2.4 Tấn phong giám mục không có phép của ĐGH
2,5 Lỗi ấn tòa giải tội
2.6 Phá thai
2.7 Bỏ đạo, rối đạo, ly khai khòi Giáo hội Rô-ma[1]
Bốn vạ đầu tiên dành cho Tòa thánh, nghĩa là chỉ Tòa Thánh mà đứng đầu là ĐGH mới có quyền tha. Vạ này gọi là vạ tiền kết (latae sententiae), nghĩa là hễ lỗi thì đương nhiên bị phạt và ngay tức khắc, không cấn phải tuyến án. Còn những vạ kia gọi là phán kết (ferendae sententiae), nghĩa là có tuyên án phạt về những hành vi pháp lý đặc biệt do giáo quyền công bố. Hai trường hợp thường được nhắc đến trong giáo luật hiện hành là :
* Không phải là linh mục mà làm lễ hay giải tội
* Lỗi ấn tòa giải tội do nghe lén hay làm thông ngôn dịch tội, khi người xưng tội không nói được tiếng của cha giải tội hay bị câm.[2] .
Trong các vạ, có hai loại : một loại là tiền kết và một loại là phán kết[3]. Giáo luật số 1324, 1341 nói rõ về hai loại vạ này, nghĩa là khi nào thì vạ mang tính tiền kết, khi nào thì mang tình phán kết.
3. Ai có quyền phạt vạ ?
Quyền phạt vạ thuộc Tòa thánh mà cao hơn hết là ĐGH. Các vạ và hình phạt tùy theo tôi trạng đã được qui định rõ ràng trong Giáo luật, nghĩa là lỗi điều luật nào thì phải mang vạ nào. Tòa thánh có quyền tối cao rồi đến các giám mục. Các giám mục được quyền tha vạ cho những người phá thai,[4] và những ai có lời khấn đơn trong các hội dòng thuộc giáo phận mà kết hôn, trước khi được tháo giải lời khấn. Các ngài có quyền phạt các linh mục phạm lỗi phải bị « treo chén »[5], phạt xứ đạo nào ngoan cố chống lại quyền bính một cách vô lối không theo một trình tự pháp lý nào. Tuy nhiên, vạ phán ra phải nhằm giúp người có lỗi sửa mình, và phải được đưa ra trong tình trạng tự chủ, sáng suốt chứ không phải trong lúc bực bội.
Những người rối vợ rối chồng, lấy nhau không có phép giao, phép cưới cũng bị rút phép thông công, nghĩa là không được lãnh nhận các bí tích, bao lâu họ còn ở trong tình trạng rối rắm này. Khi hết rồi, họ lại đuợc xưng tội tội rước lễ như thường. Những người ở trong tình trạng tội lỗi liên miên cũng thế, như những người có vợ nhỏ, có nhân tình thậm thụt mà không dứt bỏ.
Tưởng cũng nên phân biệt tội và vạ. Tội là nói, làm, nghĩ, muốn những gì trái với các điều răn của Chúa và tiếng lương tâm. Còn vạ là hình phạt do Giáo luật qui định để phạt những người lỗi luật Hội thánh được ghi trong Giáo luật.
Tất cả các vạ đều đã được ghi chép rõ ràng trong Giáo luật. Bởi vậy, không phải bất cứ ai, dù là giám mục hay linh mục có thể ra vạ tuyệt thông và tuyến cáo những hình phạt theo ý riêng mà không qui chiếu theo Giáo luật[6].
Kết luận
Giáo luật được làm ra là để hướng dẫn và điều hành các công việc trong đời sông chung của Hội thánh, cũng như đời sống riêng của mõi người. Giáo hội công giáo được tiếng là có tổ chức chặt chẽ và kỷ cương nghiêm minh từ trên xuống dưới. Mối dây đoàn kết trong Hội thánh dựa vào tinh thần tôn trọng và tuân giữ kỷ luật của mọi người. Chừng nào kỷ cương không được tôn trọng nơi người hành quyền cũng như kẻ phục quyền thì bấy giờ sinh ra lủng củng và mất trật tự.
Như vậy, cả đôi bên, người hành quyền cũng như kẻ phục quyền đều có bổn phận hành quyền thế nào phải phép và phục quyền quyền thế nào cho đúng đạo. Theo đường hướng này thì mọi người phải biết luật và dựa vào luật làm như kim chỉ nam trong cách hành xử. Sự thiếu hiểu biết luật đưa tới những sự lạm dụng quyền bình và coi thường kỷ cương. Tất cả đều tác hại và sinh ra những sự ngột ngạt trong đời sống đức tin.
L.m. An-rê Đỗ xuân Quế o.p.
[1] The modern Catholic Encyclopedia, Michael Glozier and Monika K. Hellwig, The Liturgical Press, Collegeville, Minnesota 1994, từ Excommunication trang 304, tác giả William C. Mc Fadden s,j.
Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, Huntington, Indiana 1997, từ Excommunication trang 224-225
[2] Vào thập niên 70, có hai nhà báo Ý mang máy vi âm vào tòa nghe lén tội rồi sau viết sách công bố những điếu nghe được ở trong tòa về điều răn thứ sáu. Hai nhà báo này đã bị vạ tuyệt thông
f[3] Tạm dịch chữ ferendae sententiae
[4] Nhưng vì ngày nay người ta phá thai nhiều quá, nên quyền tha vạ này vốn dành cho các giám mục nay cũng được nới rộng cho các linh mục được quyền giải tội.
[5] Tiếng la tinh là suspensus a divinis, nghĩa là bi huyền chức. không được cử hành các việc thiêng thánh như làm lễ giải tội, không được cử hành các bí tich và á bí tích, không đươc hành quyền theo chức vụ
[6] Xem Code de droit canonique annoté, Cerf-Tardy 1989, cuốn VI về Các hình phạt trong Hội thánh từ trang 713-784
Anh Giáo ngỡ ngàng trước tuyên bố ủng hộ trợ tử cuả cựu Tổng Giám Mục Lord Carey
Hơn một năm trước đây, ngày 27/7/2014, Đức Tổng Giám Mục Canterbury, vị đứng đầu của Anh Giáo, đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô để xin Ngài đừng vì việc Giáo Hội Anh Giáo chấp thuận tấn phong Giám Mục cho phụ nữ mà tiến trình hiệp nhất giữa Công Giáo và Anh Giáo bị trệch ra khỏi chương trình hiệp nhất.
Đức Tổng Giám Mục Justin Welby thừa nhận rằng việc Giáo Hội Anh Giáo bỏ phiếu chấp thuận cho phụ nữ làm Giám Mục đã gây thêm trở ngại cho con đường hiệp nhất vốn đã khó khăn lại càng khó khăn thêm. Nhưng, ngài nhấn mạnh rằng, tuy có những dị biệt, những điểm chung giữa hai bên vẫn nhiều hơn.
Một trong những điểm chung ấy là lập trường quyết liệt chống lại an tử và trợ tử. Thật vậy, Anh quốc là một trong số những quốc gia nơi cho đến nay những cố gắng hợp pháp hóa trợ tử đều thất bại. Trong những ngày này, Giáo Hội Công Giáo và Anh Giáo tại nước này đang chống trả mạnh mẽ một cố gắng mới nhằm hợp pháp hoá việc trợ tử tại Hạ Viện Anh.
Linh mục Brendan McCarthy, một cố vấn về y đức cho Giáo Hội Anh, nói cuộc bỏ phiếu tại Hạ viện nhằm hợp pháp hoá việc trợ tử là một đề xuất “ngây thơ đầy tội lỗi” và “chắc chắn” sẽ đưa những người cao niên dễ bị tổn thương đến nguy cơ chết êm dịu không tự nguyện.
Tuy nhiên, tuần qua, Lord Carey, cựu Tổng giám mục Canterbury, đã gây sửng sốt cho hàng lãnh đạo của Giáo Hội Anh khi nói rằng việc bác sĩ hỗ trợ tự tử có thể là “một điều phù hợp sâu sắc tinh thần Kitô giáo và hoàn toàn hợp đạo đức.”
Lord Carey, người từng là lãnh đạo khối hiệp thông Anh giáo toàn thế giới từ năm 1991 cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2002, nói rằng ông vững tin là người ta có thể đề ra những biện pháp ngăn chặn việc lạm dụng an tử hợp pháp hóa để buộc những người già phải chết. Tuy nhiên, Lord Carey không đưa ra được những cơ sở cho tin tưởng này của ông.
Trong thực tế, gần 2% trong số những người chết mỗi năm ở Bỉ đã bị giết thông qua chiêu bài trợ tử mà không có sự yêu cầu hay sự đồng ý của họ. Một nghiên cứu mới vừa công bố như trên tờ Journal of Medical Ethics, nghĩa là Tạp chí về Y Đức.
Bỉ đã đi tiên phong trong việc cho phép bác sĩ trợ giúp tự tử, và mở rộng việc thực hành này đến mức cho phép các bác sĩ tự quyết định gây tử vong cho những bệnh nhân mà họ đánh giá là không thể đưa ra quyết định cho chính mình.
Quốc hội Bỉ hợp pháp hóa an tử ngày 28 tháng năm 2002. Đã có khoảng 1,400 trường hợp an tử mỗi năm kể từ khi luật này được đưa ra, và một kỷ lục lên tới 1,807 trường hợp được ghi nhận vào năm 2013.
Tháng 12 năm 2013, Thượng viện Bỉ bỏ phiếu ủng hộ việc mở rộng luật an tử của mình cho cả trẻ em bị bệnh nan y.
Năm 2007, một nghiên cứu cho thấy, 1.8% các ca tử vong liên quan đến an tử tại Bỉ không hề có yêu cầu hoặc sự đồng ý của bệnh nhân. Năm 2013 con số này là 1.7%.
Sự giàu có không chia sẻ tạo ra băng hoại
Nếu anh chị em giàu có, anh chị em phải chắc chắn rằng sự giàu có của anh chị em phục vụ “công ích”. Một sự dư dật của cải trong lối sống ích kỷ là “buồn bã”, đánh cắp đi “niềm hy vọng”, và là nguồn gốc “của tất cả các loại băng hoại” lớn nhỏ. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Hai 25 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta.
Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư về một trong những đoạn nổi tiếng nhất của Phúc Âm trong đó Chúa Giêsu gặp một người đàn ông trẻ tuổi giàu có. Anh nhiệt tình muốn theo Ngài và bảo đảm với Ngài rằng anh ta sẽ luôn luôn sống đúng theo các điều răn. Nhưng khi Chúa Giêsu nói với anh rằng còn một điều cần thiết cuối cùng là hãy bán đi mọi của cải và bố thí cho người nghèo và sau đó theo Ngài thì thái độ nhiệt thành và sự sẵn sàng của người thanh niên nhanh chóng thay đổi. Đột nhiên, “niềm vui và hy vọng” trong người thanh niên giàu có tan biến đi, vì anh ta không muốn từ bỏ sự giàu có của mình.
“Sự dính bén đến của cải là căn nguyên của tất cả các loại băng hoại, ở khắp mọi nơi: băng hoại cá nhân, tham nhũng trong kinh doanh, ngay cả những khoản tiền hối lộ trong thương mại, các loại bớt xén khi mua bán, tham nhũng chính trị, tham nhũng trong giáo dục … Tại sao? Vì những người mà cuộc sống gắn liền với quyền lực và của cải tin rằng họ đang ở trên thiên đường. Họ đang đóng cửa, họ không có chân trời, không có hy vọng. Nhưng cuối cùng họ sẽ phải bỏ lại tất cả mọi thứ.”
Đức Thánh Cha nói tiếp:
“Có một bí ẩn trong sự sở hữu của cải. Sự giàu sang có khả năng dụ dỗ, đưa chúng ta đến một sự mê hoặc và làm cho chúng ta tin rằng chúng ta đang ở một thiên đường trên trái đất.” Nhưng thiên đường trần thế là một nơi không có “chân trời”, tương tự như khu phố mà Đức Thánh Cha đã từng thấy vào những năm của thập niên bảy mươi, trong đó những người giàu có đã xây dựng những bức tường và hàng rào để bảo vệ tài sản mình khỏi bị trộm cắp.
“Sống mà không có chân trời là một cuộc sống vô sinh, sống không có hy vọng là một cuộc sống buồn tênh. Sự gắn bó với của cải làm cho chúng ta buồn và làm cho chúng ta vô sinh. Tôi nói ‘gắn bó’, tôi không nói về ‘sự quản lý tốt của cải’ cho lợi ích chung, cho tất cả mọi người. Và nếu Chúa ban của cải cho một người thì đó là để chúng được sử dụng vì lợi ích của tất cả, không phải cho bản thân người đó, không phải để người ấy đóng kín con tim, để rồi sau đó trở thành băng hoại và buồn bã.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng: “Tài sản không đi kèm lòng quảng đại làm cho chúng ta tin rằng chúng ta có quyền năng như Thiên Chúa. Và cuối cùng nó lấy mất đi cái quý nhất là hy vọng”
Để kết luận, Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đã chỉ ra trong Tin Mừng con đường đúng để sống.
“Mối phúc đầu tiên: ‘Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó’, nghĩa là lột bỏ sự gắn bó của cải thế gian này và bảo đảm rằng sự giàu có Chúa ban cho chúng ta được dùng cho thiện ích chung. Đó là cách duy nhất. Hãy mở bàn tay anh chị em ra, hãy mở rộng tâm hồn anh chị em, hãy rộng chân trời. Nếu anh chị em có đôi tay khép kín, con tim đóng lại như người phú hộ mở hết tiệc này đến tiệc khác và mặc toàn quần áo đắt tiền, anh chị em không có chân trời, anh chị em không nhìn thấy những người khác đang có nhu cầu và anh chị em sẽ kết thúc như người phú hộ ấy là xa cách Thiên Chúa”
Tổ chức Y tế Thế giới ráo riết đào tạo nhân viên y tế phá thai
Đào tạo cấp tốc thêm nhiều nhân viên chăm sóc sức khỏe trên toàn thế giới để tham gia vào việc phá thai là ưu tiên cấp thời của Tổ chức Y tế Thế giới, gọi tắt là WHO. Điều này được đề cập đến trong một báo cáo mới của tổ chức này dài 81 trang được đưa ra vào cuối tháng 7 vừa qua và có thể đọc được tại đây: Health worker roles in providing safe abortion care and post-abortion contraception
Báo cáo này nhận định rằng: “Trong số những rào cản hạn chế việc tiếp cận với khả năng phá thai an toàn, việc thiếu cán bộ được đào tạo chính quy là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Người ta ước tính rằng với nhu cầu phá thai ngày càng gia tăng như hiện nay, sự thiếu hụt toàn cầu của các chuyên gia y tế có kỹ năng phá thai sẽ lên tới con số 12.9 triệu vào năm 2035.”
“Chính sách và rào cản pháp lý, sự kỳ thị hoặc không sẵn lòng của một số chuyên gia chăm sóc sức khỏe có thể hạn chế thêm khả năng phụ nữ tiếp cận với phá thai và những dịch vụ chăm sóc sau phá thai trong nhiều bối cảnh đa dạng”, báo cáo cho biết thêm.
WHO cũng không ngần ngại thúc giục các nước cấp viện phương Tây gây sức ép với các nước nghèo tiến hành một chính sách khắt khe về dân số qua việc mở rộng các dịch vụ phá thai và hạn chế sinh sản.
Đặng Tự Do
Liên Đoàn CGVN Hoà Kỳ hân hoan chúc mừng tân Chủ Tịch Cộng Đồng Phó Tế Việt Nam tại Hoa Kỳ
Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ Hân hoan chúc mừng Thầy Phó tế Nguyễn Ánh vừa được bầu làm tân Chủ Tịch Cộng Đồng Phó Tế Việt Nam tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ 4 năm (July 2015- July 2019).
![]() |
Tân Chủ Tịch Cộng Đồng Phó Tế Vĩnh Viễn cũng là Phó Chủ Tịch Liên Đoàn, đặc Trách Cộng Đồng Phó Tế Vĩnh Viễn.
Xin Chúa chúc lành và ban nhiều Ơn cần thiết để Thầy chu toàn trách nhiệm của Cộng Đoàn Phó Tế Vĩnh Viễn và Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Cùng với quý Cha trong Ban Thường Vụ và Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương, tôi chân thành cám ơn Phó Tế Phaolô Hoàng Ngọc Quý rất nhiều đã phục vụ nhiệt tâm trong nhiệm kỳ 2 năm vừa qua. Xin Chúa tiếp tục ban cho Thầy và Gia Đình sức khỏe và trần đầy Ân Sủng, để Thầy tiếp tục đem những tài năng Chúa ban phục vụ cho Cộng Đồng Phó Tế, Liên Đoàn và Giáo Hội.
Xin Thiên Chúa, qua lời bầu cử của Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô – Bổn Mạng Liên Đoàn, chúc lành cho các công việc mục vụ của chúng ta.
Kính chào,
Đức Ông Giuse Trịnh Minh Trí
Chủ Tịch Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ
Chúng ta là loại Kitô hữu nào?
Trong bài giảng tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phân tích bài Tin Mừng kể về câu chuyện người mù Bathimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường khi Chúa Giêsu đi qua, và đã kêu xin Chúa chữa lành nhưng nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi. Bài Tin Mừng dẫn Đức Thánh Cha đến những suy tư về ba loại Kitô hữu khác nhau.
Trước hết là những Kitô hữu thờ ơ, những người chỉ quan tâm đến mối quan hệ riêng của họ với Chúa Giêsu, một mối quan hệ “khép kín và ích kỷ”. Đó là những người không nghe thấy tiếng kêu của những người khác.
Đức Thánh Cha nói:
“Nhóm người này, ngay cả ngày hôm nay, không nghe thấy tiếng kêu của biết bao người đang cần đến Chúa Giêsu. Đây là một nhóm những người dửng dưng: họ không nghe, họ nghĩ cuộc sống là dành riêng cho nhóm nhỏ của họ; họ hài lòng; họ ngoảng tai làm ngơ trước tiếng ồn ào của rất nhiều người đang cần đến ơn cứu rỗi, những người cần sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, những người cần Giáo Hội. Họ là những con người ích kỷ, họ sống cho bản thân mình mà thôi. Họ không thể nghe thấy tiếng nói của Chúa Giêsu.”
Tiếp đến là loại Kitô hữu làm câm nín những tiếng kêu cầu Chúa Giêsu.
Đức Thánh Cha nói tiếp:
“Có những người nghe thấy tiếng kêu xin giúp đỡ này, nhưng lại muốn làm tắt đi tiếng kêu ấy” như các môn đệ xua các trẻ em đi nơi khác ‘để họ đừng làm phiền Thầy’. Họ hành xử như thể Ngài là Thầy của họ – Ngài dành riêng cho họ, không phải cho tất cả mọi người. Những người này xua đuổi khỏi Chúa Giêsu những người đang kêu gào, những người cần đức tin, những người cần ơn cứu rỗi. Trong nhóm này người ta tìm thấy những người kinh doanh, những người gần gũi với Ngài, những người ở trong đền thờ. Họ có vẻ ‘ngoan đạo’, nhưng Chúa Giêsu đã đuổi họ đi vì họ đã kinh doanh trong ngôi nhà của Thiên Chúa. Có những người ‘không muốn nghe thấy tiếng kêu cứu, nhưng thích chăm sóc cho doanh nghiệp của họ, và sử dụng người của Thiên Chúa, sử dụng cả Giáo Hội cho việc kinh doanh riêng của mình. Trong nhóm này có những Kitô hữu không đưa ra chứng tá nào.
“Họ là những Kitô hữu trên danh nghĩa, các Kitô hữu phòng tiếp tân, các Kitô hữu chỉ ở ngoài mặt nhưng đời sống nội tâm của họ không phải là Kitô, nhưng là thế gian. Những ai tự gọi mình là Kitô hữu nhưng sống trần tục đang xua đi những người kêu xin Chúa Giêsu giúp đỡ. Và tiếp đó là những người hà khắc, những người mà Chúa Giêsu đã quở trách vì đã đặt những gánh quá nặng trên lưng người dân. Chúa Giêsu đã dành toàn bộ chương thứ hai mươi ba của Thánh Matthêu để nói về họ: ‘những kẻ đạo đức giả’, Ngài nói ‘các ngươi bóc lột dân chúng’ Và thay vì đáp lại tiếng kêu của những người kêu cầu ơn cứu rỗi, họ xua đuổi họ đi.”
Cuối cùng là những Kitô hữu sống mạch lạc niềm tin Kitô của mình. Đó là “những người giúp đỡ những ai muốn đến gần Chúa Giêsu”. Đức Thánh Cha nói: “Có những nhóm Kitô hữu sống nhất quán với những gì họ tin tưởng, và họ giúp mang đến gần Chúa Giêsu những người đang kêu cầu, tìm kiếm ơn cứu rỗi, tìm kiếm ân sủng, tìm kiếm sức khỏe thiêng liêng cho linh hồn họ”
Đức Thánh Cha kết luận:
“Thật là tốt nếu chúng ta kiểm điểm lương tâm để xem chúng ta là các Kitô hữu xua đuổi mọi người xa Chúa Giêsu, hay là những người thu hút mọi người đến với Ngài vì chúng ta nghe thấy tiếng kêu xin của nhiều người đang tìm kiếm sự giúp đỡ cho phần rỗi của họ.”
Những Kitô hữu trần tục không thể vừa có cả Thiên Đàng lẫn Thế Gian
Thật đáng buồn khi thấy những Kitô hữu vừa muốn “theo Chúa Giêsu vừa muốn những sự thuộc về thế gian này”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba 26 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta. Ngài nhấn mạnh rằng Kitô hữu được mời gọi đưa ra sự chọn lựa quyết liệt trong cuộc sống: anh chị em không thể là một Kitô hữu “nửa vời”, muốn “cả thiên đàng lẫn thế gian”.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha trình bày những suy tư trên câu hỏi thánh Phêrô đưa ra với Chúa Giêsu: ông và các tông đồ sẽ được hồi đáp những gì khi theo Chúa Giêsu? Thánh Phêrô đã đưa ra câu hỏi này sau khi Chúa bảo người thanh niên giàu có hãy bán hết của cải của anh và phân phát cho người nghèo.
Một Kitô hữu không thể có cả thiên đàng lẫn thế gian; đừng để mình dính bén vào của cải
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, Chúa Giêsu đã trả lời trái với sự mong đợi: Ngài không hứa ban giàu có cho các môn đệ, nhưng là hứa ban Nước Trời đi kèm với “bách hại và thập giá”.
Ngài nói:
“Khi một Kitô hữu dính bén vào của cải thế gian, người ấy đưa ra một ấn tượng rất xấu về người Kitô hữu muốn được cả hai: cả thiên đàng lẫn thế gian. Tiêu chí lựa chọn [của người môn đệ Chúa] chính xác là điều Chúa Giêsu đã nói: thập giá và bách hại, là từ bỏ mình và vác thánh giá mỗi ngày… Các môn đệ bị cám dỗ để vừa muốn theo Chúa nhưng lại muốn mặc cả. Cuộc mặc cả này kết thúc như thế nào đây?”
Đức Thánh Cha nhắc đến một đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu kể lại việc bà mẹ của hai tông đồ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu bảo đảm cho hai người con bà được hầu cận hai bên Ngài.
Đức Thánh Cha khôi hài rằng: “À! cho đứa này làm thủ tướng cho tôi – còn đứa kia làm bộ trưởng kinh tế… Bà đã chọn lợi lộc trần thế khi theo Chúa Giêsu”.
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống “tâm hồn các môn đệ được thanh tẩy, họ mới hiểu mọi sự. Theo Chúa Giêsu một cách nhưng không là sự đáp lại tình yêu và ơn cứu độ nhưng không của Ngài ban cho chúng ta”. Đức Thánh Cha cảnh cáo rằng “Khi ta muốn cùng đi cùng ở với cả Chúa Giêsu và thế gian, với cả sự khó nghèo và sự giàu sang thì đó là Kitô giáo nửa vời còn mải mê thu tích của cải đời này. Đó là tinh thần thế gian”
Sự giàu có, phù hoa và kiêu ngạo làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu
Lặp lại những lời của tiên tri Êlia, Đức Thánh Cha Phanxicô ám chỉ những kitô hữu loại này là người “khập khễnh trên hai chân” vì người ấy “không biết mình muốn gì”. Đức Thánh Cha khẳng định rằng để hiểu điều này, chúng ta phải nhớ điều Chúa nói “kẻ trước hết sẽ nên chót hết và người sau hết sẽ nên trước hết”, nghĩa là “ai tin hay ai là người cao trọng nhất” phải là “người tôi tớ và trở nên nhỏ bé nhất”.
“Theo Chúa Giêsu, theo quan điểm người ta thường tình, không phải là lựa chọn tốt vì đó là phục vụ như Ngài đã làm. Nếu Chúa ban cho anh chị em cơ hội trở nên người ‘trước hết’, thì anh chị em phải hành động giống như người chót hết, nghĩa là, phục vụ anh chị em mình. Và nếu Chúa ban cho anh chị em khả năng có nhiều của cải, thì anh chị em phải phục vụ, nghĩa là trao ban cho tha nhân. Có ba thứ, ba bước làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu là sự giàu có, phù hoa và lòng kiêu ngạo. Đó là tại sao ba điều này rất nguy hiểm! Sự giàu có ngay lập tức tạo nên hư danh và anh chị em nghĩ rằng mình quan trọng. Và khi anh chị em nghĩ mình quan trọng như thế thì anh chị em đánh mất đi cái đầu của mình và đánh mất chính mình”.
Một Kitô hữu trần tục là một dấu chỉ phản chứng.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Điều Chúa muốn nơi chúng ta là ‘lột sạch’ những bám víu trần tục. Chúa Giêsu đã mất nhiều thời gian mới làm cho các tông đồ hiểu được điều này ‘bởi vì họ không hiểu’. Chúng ta cũng phải xin Ngài dạy chúng ta “khoa học phục vụ này”, “khoa học về sự khiêm nhường, khoa học để trở nên chót hết hầu phục vụ anh chị em mình trong Giáo Hội”.
“Thật là buồn khi thấy một kitô hữu nửa vời cho dù đó là một giáo dân, một linh mục, hay một giám mục. Thật buồn khi anh chị em thấy một người vừa theo Chúa Giêsu vừa đam mê những sự thế gian. Và đây là một dấu chỉ phản chứng làm cho người ta xa Chúa Giêsu. Giờ đây, chúng ta tiếp tục cử hành Hy Tế Thánh Thể, trong khi suy gẫm về câu hỏi của Phêrô. ‘Chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy thì chúng con sẽ nhận được gì?’ Và hãy nghĩ về câu trả lời của Chúa Giêsu. Phần thưởng Ngài sẽ ban cho chúng ta là trở nên giống như Ngài. Đây là “ân thưởng” của chúng ta. Ân thưởng to lớn là được nên giống như Chúa Giêsu!”
Câu chuyện ngụ ngôn về sa mạc
Sa mạc Ả Rập là một sa mạc bao la trải rộng trên hầu hết bán đảo Ả Rập với diện tích 2 triệu 330 ngàn cây số vuông, trải dài từ Yemen đến Vịnh Ba Tư và từ Oman đến Jordan và Iraq. Sa mạc bao la này khiến cho vùng đất nóng quanh năm. Nhiệt độ vào mùa hè thường xuyên là 40 độ bách phân và có thể lên đến 46 độ bách phân hàng tuần lễ.
Người Ả Rập giải thích nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau:
“Sau khi con người sa ngã và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, họ tiếp tục phạm những tội lỗi khác. Trong đó có một tội đặc biệt làm mất lòng Thiên Chúa là tội dối trá. Khi người đầu tiên nói dối, Thiên Chúa tập trung ngay loài người lại và tuyên bố: ‘Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm một điều dối trá nữa. Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá, ta sẽ cho rơi xuống mặt đất một hạt cát’.
Trước lời đe dọa của Thiên Chúa, nhiều người cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng kể là bao sánh với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ. Thành ra, loài người đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa. Người thứ hai thêm một lời nói láo mà vẫn đinh ninh đó chỉ là một lời không đáng kể, cũng như thêm một hạt cát trên trái đất cũng không thay đổi được bộ mặt của nó. Cứ thế, người thứ ba, rồi người thứ tư… Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để cho cát rơi xuống trên mặt đất nữa… Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các thiên thần để cho mưa cát xuống… Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi, những vườn cây um tùm biến thành sa mạc khô cằn. Thỉnh thoảng một vài ốc đảo xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện diện của một vài người còn biết tôn trọng sự thật. Nhưng dần dà, ôn dịch dối trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ còn là một bãi sa mạc.
Chúa Giêsu đã lên án gắt gao thái độ dối trá. Ngài nói: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”. Kẻ dối trá, do đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị và điều khiển của ma quỷ.
Tất cả những ai sống trong một xã hội xây dựng trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn nhau đều là những biểu hiện của sa mạc của tình người. Sa mạc nào cũng là biểu hiện của sự chết: chết của tình người, chết của lòng tin tưởng lẫn nhau, chết của hy sinh phục vụ, chết của lòng quảng đại. Tựu trung, dối trá cũng là tên gọi của ích kỷ. Người dối trá là người chỉ biết sống cho mình. Nếu ơn gọi của con người, nếu sự thật của con người là sống yêu thương, sống cho người, thì kẻ dối trá là người chối bỏ chính mình.
Mỗi một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
Mọi đổ vỡ và lựa chọn sai lầm của cha mẹ gây khổ đau cho con cái
Trong gia đình tất cả đều gắn liền với nhau. Vì thế mọi lời nói việc làm và thiếu sót của cha mẹ đều gây ra các thương tích trong tâm hồn con cái, và để lại các hậu qủa trầm trọng trong cuộc sống của chúng. Khi các người lớn mất lý trí, khi mỗi người chỉ nghĩ tới chính mình, khi cha mẹ làm cho nhau đau khổ, tâm hồn của trẻ em đau khổ rất nhiều, nó cảm thấy tuyệt vọng. Và chúng là các vết thương để lại dấu vết trong suốt cuộc đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi triều yết chung hôm thứ Tư 24 tháng Sáu, lễ kính Thánh Gioan Tẩy Giả.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý các vết thương trong cuộc sống chung của gia đình. Ngài nói: thật là điều xấu, khi trong gia đình người ta làm cho nhau đau khổ. Chúng ta biết là không có lịch sử gia đình nào mà lại không có các thời gian, trong đó sự thân tình của các trìu mến bị xúc phạm bởi thái độ sống của các thành phần trong gia đình. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Các lời nói, các hành động và các thiếu sót, thay vì diễn tả tình yêu thương, thì lại lấy mất đi, hay tệ hại hơn, gây khổ đau cho tình yêu thương. Khi các vết thương này còn có thể sửa chữa được, chúng bị lơ là, trở nên trầm trọng và biến thành các ưu quyền, sự thù nghịch và khinh rẻ. Và lúc đó chúng có thể trở thành các xâu xé sâu đậm, chia rẽ vợ chồng, và dẫn đưa tới chỗ tìm ở nơi khác sự cảm thông, nâng đỡ và an ủi. Nhưng thường khi các “nâng đỡ” ấy không nghĩ tới hạnh phúc của gia đình.
Sự trống rỗng tình yêu hôn nhân làm lan tràn sự oán hận trong các tương quan. Và thường khi sự tan vỡ đổ ập trên con cái. Con cái, đó là điểm tôi muốn đề cập tới một chút. Mặc dù sự nhậy cảm của chúng ta bề ngoài xem ra đã tiến triển, và mọi phân tích tâm lý tinh tế của chúng ta, tôi tự hỏi chúng ta cũng có đang gây mê đối với các vết thương trong tâm hồn các trẻ em hay không. Người ta càng tìm cách bù trừ bằng quà cáp và bánh ngọt bao nhiêu, thì lại càng đánh mất đi ý thức về các vết thương của tâm hồn – đau đớn và sâu đậm hơn – bấy nhiêu. Chúng ta nói nhiều về các thái độ hỗn loạn, về sức khỏe tâm thần, vể hạnh phúc của trẻ em, sự lo âu của cha mẹ và con cái… Nhưng chúng ta có còn biết vết thương của tâm hồn là cái gì không? Chúng ta cảm thấy sức nặng của quả núi đè bẹp tâm hồn một trẻ em, trong các gia đình, trong đó người ta đối xử tàn tệ với nhau và làm cho nhau đau khổ, cho tới chỗ bẻ gẫy mối dây liên kết của sự chung thuỷ hôn nhân? Các lựa chọn của chúng ta có sức nặng nào trên tâm hồn của các trẻ em? Có sức nặng nào trong các lựa chọn của chúng ta – các lựa chọn sai lầm chẳng hạn, có sức nặng biết bao nhiêu trên tâm hồn của các trẻ em?
Khi các người lớn mất lý trí, khi mỗi người chỉ nghĩ tới chính mình, khi cha mẹ làm cho nhau đau khổ, tâm hồn của trẻ em đau khổ rất nhiều, nó cảm thấy tuyệt vọng. Và chúng là các vết thương để lại dấu vết suốt cả cuộc đời.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:
Trong gia đình tất cả đều gắn bó với nhau: khi tâm hồn của trẻ em bị thương tích tại một điểm nào đó, thì sự nhiễm trùng lan sang mọi nguời. Và khi một người đàn ông và một người đàn bà dấn thân để trở nên “một thân thể duy nhất” và thành lập một gia đình, nghĩ tới các đòi hỏi riêng của họ liên quan tới sự tự do và tưởng thưởng một cách ám ảnh, thì sự lệch lạc này tấn kích con tim và cuôc sống của con cái một cách sâu đậm. Biết bao lần các trẻ em lẩn trốn để khóc một mình… Chúng ta phải hiểu rõ điều này. Chồng vợ là một thịt xác duy nhất. Nhưng các thụ tạo của họ là thịt xác của thịt xác họ. Nếu chúng ta nghĩ tới sự cứng rắn mà Chúa Giêsu dùng để cảnh cáo người lớn đừng gây gương mù gương xấu cho các trẻ em, như đã nghe trong đoạn Tin Mừng (x. Mt 18,6), thì chúng ta cũng có thể hiểu một cách dễ dàng hơn lời nói của Ngài liên quan tới trách nhiệm trầm trọng phải gìn giữ mối dây hôn nhân khai mào gia đình nhân loại (x, Mt 19,1-9). Khi người nam và người nữ đã trở nên một thịt xác duy nhất, thì mọi vết thương và các bỏ rơi của người cha hay người mẹ ghi đậm dấu vết trên thịt xác sống động của con cái họ.
Đàng khác, cũng đúng thật là có những trường hợp, trong đó sự chia ly không thế tránh được. Đôi khi nó có thể trớ thành cần thiết trên bình diện luân lý, khi người ta tìm lấy khỏi người phối ngẫu yếu duối hơn, những đứa con còn bé khỏi các vết thương trầm trọng hơn, bị gây ra bởi ưu quyền và bạo lực, sự nhục nhã và khai thác bóc lột, sự xa lạ và thờ ơ.
Nhưng cám ơn Chúa không thiếu những người được nâng đỡ bởi đức tin và tình yêu thương đối với con cái, làm chứng cho sự chung thủy của họ đối với mối dây ràng buộc mà họ đã tin, dù xem ra không thể làm nó sống lại được. Tuy nhiên, không phải mọi nguời ly thân đều cảm thấy ơn gọi này. Không phải ai cũng thừa nhận trong thinh lặng một tiếng gọi của Chúa hướng tới họ. Chung quanh chúng ta chúng ta tìm thấy các gia đình khác nhau trong những hoàn cảnh bất bình thường. Tôi không thích từ này và chúng ta đặt ra nhiều câu hỏi? Làm sao trợ giúp các gia đình? Làm thế nào để đồng hành với chúng? Làm thế nào để đồng hành với các gia đình để con cái không trở thành con tin của cha hay mẹ?
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta một đức tin lớn lao để nhìn thực tại với cái nhìn của Thiên Chúa; và một tình bác ái lớn lao để đem con người tới gần trái tim thuơng xót của Chúa.
Câu chuyện Vị Tiên Tri Cô Độc
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
“Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất… Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời…
Ðộng đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại…
Buồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường…
Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ…”
Con đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc…
Phụng Vụ ngày 3 tháng 7 kính nhớ thánh tông đồ Tôma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin… Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôi không kiểm chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng…
Thái độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối…
Thái độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Ðức Tin… Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các tiền nhân… Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm khi, chúng ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của người Kitô.
Recent Comments