Bậc Độc Thân Linh Mục
1. Theo các sách Tin Mừng , khi Đức Giê-su gọi các môn đệ đầu tiên để làm cho các ông thành những kẻ “lưới người như lưới cá” (Mt 4,19 ; Mc 1,17 : x Lc 5,10), các ông đã bỏ mọi sự và đi theo Người. (Lc 5,11 ; x Mt 4,20..22 ; Mt 1,18-20)
Đức Giê-su kể ra tất cả những dứt bỏ cần thiết vì Người và vì Tin Mừng , không phải chỉ dứt bỏ của cải vật chất như nhà cửa, ruộng vườn mà cả những người mình yêu quí nhất như ông bà, cha mẹ, con cái, anh chị em, bạn hữu (Lc 18,20).
Hai thứ đòi hỏi
Đức Giê-su đã không đòi các môn đệ của mình phải từ bỏ triêt để đời sống gia đình, dù đòi ai nấy phải dành chỗ nhất trong trái tim mình cho Người : “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai, con gái hơn Thấy thì không xứng với Thầy.” (Mt 10,17). Sự đòi hỏi phải từ bỏ cách thiết thực là dành riêng cho những ai muốn sống đời thánh hiến trong hàng linh mục hay bậc tu trì. Được Đức Giê-su kêu gọi, Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê và Gio-an, em ông không chỉ bỏ thuyền, nơi các ông đang vá lưới, mà còn bỏ cả cha, người đang ở với các ông lúc bấy giờ (Mt 4,22 ; x Mc 1,20).
Những sự việc trên giúp chúng ta hiểu tại sao có luật của Hội Thánh về bậc độc thân. Thật vậy, Hội Thánh đã nghĩ và còn nghĩ rằng bậc dộc thân linh mục nằm trong lý đương nhiên của đời thánh hiến, hoàn toàn thuộc về Chúa Ki-tô, nhằm thực hiện cách ý thức lệnh truyền về đời sống thiêng liêng và công cuộc rao giảng Tin Mừng.
2. Tự nguyện sống độc thân
Trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, đoạn nói về việc xa cách, từ bỏ người thân, Đức Giê-su dùng một kiểu nói sê-mít để chỉ một sự từ bỏ cần thiết khác vì Nước Trời là từ bỏ gia đình :”Có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời” ((Mt 19,12), nghĩa là tự nguyện sống độc thân để có thể hoàn toàn phục vụ Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Mt 4,23 ; 9, 35 ; 24,34). Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Co-rin-tô, thánh Phao-lô quả quyết mình đã dứt khoát chọn con đường này vì sự ăn ý chặt chẽ với quyết định trên : “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa : họ tìm cách làm đẹp lòng Người, còn người có vợ thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi” (1 Cr 7, 32-34) Đã hẳn, ai được gọi làm linh mục thì không được chia đôi. Công Đồng dạy : “Hiến mình sống đời độc thân phát xuất từ truyền thống đến từ Đức Ki-tô là điều đặc biệt thích hợp với đời sống linh mục. Nó vừa là dấu hiệu vừa là động lực của đức ái mục tử, một nguồn mạch phong phú sức sống thiêng liêng trên thế giới (PO 16).
Bên Hội Thánh Đông Phương, có nhiều linh mục lập gia đình cách chính đáng theo luật của họ. Nhưng các giám mục và nhiều linh mục vẫn sống độc thân. Sự khác biệt về kỷ luật giữa Hội Thánh Đông Phương và Tây Phương gắn liền với những điều kiện về thời gian và không gian. Theo sự xét đoán của Hội Thánh Công Giáo, sự đòi hỏi tiết dục hoàn toàn không phải là đòi hỏi của chính bản tính chức linh mục. Nó không thuộc về yếu tính của chức linh mục xét theo Bí Tích Truyền Chức và không bị áp đặt tuyệt đối cho mọi Hội Thánh. Tuy nhiên, nếu xét theo sự xứng hợp nên chăng thì tiết dục rất thích hợp với những đòi hỏi của Bí Tích Truyền Chức. Nó hợp với lý đương nhiên của việc hiến thánh.
3. Chúa Giê-su, gương mẫu đời hiến thánh
Lý tưởng cụ thể của bậc đời hiến thánh này là chính Chúa Giê-su, gương mẫu của tất cả mọi người, đặc biệt các linh mục. Chúa Giê-su đã sống độc thân và đã cống hiến tất cả sức lực của mình cho công cuộc rao giảng Nước Thiên Chúa và phục vụ loài người với tâm hồn rộng mở. Người đã sống độc thân vì Nước Trời (Mt 19,12), đã đặt ra một định hướng và định hướng này đã được nhiều người đi theo. Dựa vào Các Sách Tin Mừng, Nhóm Mười Hai là những người đầu tiên tham gia chức linh mục của Chúa Giê-su, nên các ông đã từ bỏ đời sống gia đình để đi theo Người. Các sách đó không bao giờ nói đến vợ con của các ông, dù thứa biết trước khi được Đức Giê-su kêu gọi, Ông Phê-rô đã có gia đình (Mt 8,14 : Mc 1.30 ; Lc 4,38).
4. Đề nghị trước khi thành luật
Đối với chức linh mục mới, Đức Giê-su không công bố luật mà chỉ đề nghị lý tưởng độc thân. Lý tưởng này mỗi lúc một được xác định trong Hội Thánh. Trong giai doạn đầu Ki-tô Giáo phổ biến và phát triển, một số dông linh mục có gia đình, được tuyển chọn và truyền chức theo nếp truyền thống Do-thái. Trong các thư gửi môn đệ Ti-mô-thê (1Tm 3 2-3) và Ti-tô (Tt 1,6), Thánh Phao-lô yêu cầu những ai được chọn làm linh mục phải là những người cha gương mẫu, những người chồng chỉ có một đời vợ. Đó là thời kỳ Hội Thánh đang được tổ chức, đang trong thời kỳ thử nghiệm xem điều gì thích hợp với lý tưởng và lời khuyên của Chúa hơn cả, xét về kỷ luật đời sống. Từ kinh nghiệm và suy nghĩ, Hội Thánh thấy kỷ luật về bậc độc thân mỗi ngày một thêm sáng tỏ và dần dà đã đặt độc thân thành luật trong Hội Thánh. Đó không phải chỉ là hiệu quả của một sự kiện pháp lý và kỷ luật, mà chính là sự chín muồi về ý thức của Hội Thánh trong vấn đầ nên chăng của bậc độc thân linh mục, vì những lý do không những có tính lịch sử và thực hành, mà còn phát xuất từ nhận thức mỗi lúc một rõ hơn giữa bậc độc thân và những đòi hỏi của chức linh mục.
5. Thích hợp và nên chăng
Công Đồng Va-ti-ca-nô II nêu lên những lý do về sự xúng hợp mật thiết giữa bậc độc thân và chức linh mục : “Bằng cách giữ mình đồng trinh hay sống độc thân vì Nước Trời, các linh mục tận hiến cho Chúa Ki-tô một cách mới mẻ đặc biệt. Các vị dễ gắn bó với Người hơn mà khộng bị phân chia, được tự do hơn để tận hiến cho Người và nhờ Người mà phục vụ Thiên Chúa và nhân loại, sẵn sàng mau mắn hơn trong việc phục vụ Triều Đại Người và công trình tái sinh sức sống siêu nhiên, có khả năng đón nhận tình phụ tử rộng rãi hơn trong Chúa Ki-tô. Khi gợi lại những hy lễ nhiệm mầu như Chúa muốn mà hôn lễ của Hội Thánh với Phu Quân duy nhất là một, các vị trở thành dấu hiệu sống động của thế giới tương lai đã hiện diện nhờ đức tin và đức ái, nơi con cái loài người sẽ không còn lấy vợ lấy chồng nữa” (PO 16 ; x Pastores do vobis 29, 50).
Đó là những lý do giúp mọi người nâng cao tâm hồn lên. Có thể tóm tắt những nét cốt yếu như sau : gắn bó hoàn toàn với Chúa Ki-tô, yêu mến và phụng sự Người với một tấm lòng không bị chia đôi (1 Cr 7, 32-33), luôn sẵn sàng phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa và hoàn thành những nhiệm vụ của linh mục trong Hội Thánh, sống một đời sống giống với đời sống ở bên kia thế giới một cách gương mẫu hơn. Điều đó có giá trị trong mọi thời và được coi như lý do và tiêu chuẩn cho mọi phán đoán và lựa chọn phù hợp với lời kêu mời từ bỏ mọi sự của Chúa Giê-su. Vì vậy Thượng Hội Đòng Giám Mục năm 1971 xác quyết : “Luật độc thân linh mục đang có hiệu lực trong Hội Thánh La Tinh phải được tuân hành trọn vẹn.” (Ench. Vat. IV, 1219) Vì thế, những năm gần đây, dù có những vận động và đòi hỏi quyết liệt của một số giáo dân và linh mục, luật này vẫn được duy trì.
6. Những trở ngại
Quả thật, luật độc thân hiện nay đang gặp những trờ ngại đôi khi rất trầm trọng trong các điều kiện chủ quan cũng như khách quan của linh mục. Hội Thánh đã cứu xét, nhưng nghĩ rằng có thể vượt qua được các khó khăn, nếu các linh mục tăng thêm đời sống nội tâm nhờ cầu nguyên, hy sinh, hãm mình, từ bỏ, mến Chúa yêu người và những trợ giúp khác tạo thế quân bình trong các mối tương giao với giáo dân, linh mục, giám mục, các đoàn thể trong giáo xứ và cộng đồng tín hữu.
Hội Thánh đang phải phải đương đầu với các đòi hỏi, phê bình và chỉ trích của một số thành phần bên trong cũng như bên ngoái. Để đối phó với não trạng, xu hướng và những quyến rũ của thế giới hiện đại, Hội Thánh luôn tỏ ra gắn bó và trung thành với lý tưởng Tin Mừng, vì nghĩ rằng ý thức về một sự hiến thánh hoàn toàn đã chín muồi trong bao thế kỷ vẫn còn lý do để tồn tại và hoàn thiện mỗi ngày một hơn.
Hội Thánh biết rõ và nhắc lại cho các linh mục và giáo dân rằng việc giữ luật độc thân rất thích hợp với chức linh mục của Tân Ước đã được Chúa ban cho, miễn là tất cả những ai thông phần chức tư tế của Đức Ki-tô nhờ Bí Tích Truyền Chức và toàn thể Hội Thánh, khiêm nhường và tha thiết khẩn xin (PO 16).
Vậy, cần phải xin ơn hiểu biết về giá trị của bậc độc thân linh mục và kiên trì gắn bó tuyệt đối với con người và công trình cứu chuộc của Chúa Ki-tô, đồng thời cầu xin cho biết cách triệt để từ bỏ. Hạnh phúc thay ai hiểu biết và bước đi trên con đường này.
(Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế O.P.)
Một Lời Cảnh Báo Đáng Suy Tư
Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục. Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.
“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô. Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách. Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô”.
Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên. Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên Chúa. Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý. Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước tự do này. Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện họ lên tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.
Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.
Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài”. Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có những người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó. Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi. Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa. Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì?”.
Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa. Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi. Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người bình dân. Siêu đẳng như tôi thì không cần. Càng ngày tôi cũng càng ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các đấng bề trên. Chuyện gì đến cũng đã đến. Tôi không muốn sa vào những phân tích vụn vặt. Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này: Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài. Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: “Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện”. Chính Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha. Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.
Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao. Chúng ta cũng nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính. Chính sự cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh.
Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” :
“Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa. Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rỏ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí ‘dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa’ (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm hồn. Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ. Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng”.
Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.
Lời bàn:
Những lời cảnh báo này thật đáng suy nghĩ. Bao nhiêu lần tôi đi dự lễ ngày Chúa Nhật mà chỉ mong cha làm cho nhanh nhanh để tôi về còn lo làm chuyện khác. Tôi có chuyện gì đáng lo hơn là phần rỗi linh hồn của tôi.
Tôi có một công việc rồi, còn muốn kiếm thêm một công việc nữa đến nỗi không còn có giờ cầu nguyện nữa. Sống như điên, cày như điên như thế có phải là cuộc sống được chúc phúc không.
(Đặng Tự Do)
Hôn Nhân Và Gia Đình Trong Tin Mừng Gio-an
Tin Mừng Gio-an (Tin Mừng) kể về cuộc đời và sứ vụ của Đức Giê-su, vậy có thể nói gì về “đời sống hôn nhân và gia đình trong Tin Mừng này”? Bài viết tập trung vào một số đoạn văn để tìm hiểu đề tài trên. Câu hỏi đặt ra từ hai phía: Hôn nhân và gia đình góp phần thế nào vào sứ vụ và mặc khải của Đức Giê-su? Đức Giê-su mang lại điều gì thiết thực cho đời sống hôn nhân và gia đình? Phần trình bày gồm ba mục: (I) “Rượu ngon” trong đời hôn nhân; (II) “Sinh con” và “làm con”; (III) Gia đình ruột thịt và gia đình người tin.
Các trích dẫn không có tên sách là của Tin Mừng Gio-an và được lấy trong bản dịch: Giuse Lê Minh Thông, Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, Hy Lạp – Việt, Nxb. Tôn Giáo, 2011. Một số từ Hy Lạp được nói đến luôn kèm theo nghĩa tiếng Việt.
“Rượu ngon” trong đời hôn nhân
Tin Mừng chỉ dùng từ “tiệc cưới” 2 lần (2,1.2) trong dấu lạ đầu tiên tại Ca-na (2,1-12). Câu chuyện mở đầu ở 2,1-2: “1 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê, và thân mẫu Đức Giê-su ở đó. 2 Đức Giê-su và các môn đệ của Người cũng được mời đến tiệc cưới.” Hai câu này giới thiệu các nhân vật của trình thuật: thân mẫu, Đức Giê-su và các môn đệ. Bản văn không giới thiệu cô dâu, chú rể, cũng không kể về diễn tiến tiệc cưới mà đi vào vấn đề chính: “hết rượu” ở 2,3: “Vì thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: ‘Họ không có rượu nữa’.” Sau khi Đức Giê-su làm dấu lạ: 6 chum đầy nước (tất cả khoảng 600 lít) hoá thành rượu ngon, người quản tiệc gọi chú rể và nói: “Mọi người đãi rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh giữ rượu ngon đến bây giờ” (2,10). Trình thuật kết luận trong câu tiếp theo 2,11: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người.” Khung cảnh tiệc cưới trở thành nơi Đức Giê-su “bày tỏ vinh quang” và các môn đệ đã nhận ra và “đã tin vào Người”
Đoạn Tin Mừng này thường đọc trong lễ cưới với nhiều ý nghĩa. Trước hết sự hiện diện của thân mẫu, Đức Giê-su và các môn đệ cho thấy tầm quan trọng của tiệc khởi đầu đời sống hôn nhân. Các ngài hiện diện để chia sẻ niềm vui, giúp đỡ và nhất là giải quyết vấn đề khó khăn: “hết rượu”. Liệu tiệc cưới ngày nay còn cảm nhận được sự hiện diện quý báu của thân mẫu, Đức Giê-su các môn đệ không? Hôn nhân ngày nay có thể gặp những khó khăn như thiếu tình yêu, thiếu quảng đại, thiếu hiểu biết, không thể tha thứ và đón nhận nhau… đó là dấu chỉ “hết rượu” trong đời hôn nhân.
Theo lời ông quản tiệc, người ta thường đãi “rượu ngon” trước, “rượu xoàng” sau, nhưng theo mạch văn thì rượu đãi trước trong tiệc cưới (giả thiết là rượu ngon) thì trở thành “rượu xoàng” khi so với “rượu hảo hạng” Đức Giê-su ban tặng cách dồi dào. Mạch văn cho phép hiểu, khả năng của con người chỉ làm được từ “rượu xoàng” đến “rượu xoàng hơn” để đãi nhau. Nếu đời hôn nhân mà không có “rượu ngon” thì nguy cơ đổ vỡ có thể xảy ra. Để đời sống hôn nhân và gia đình luôn được tươi mới bằng thứ “rượu hảo hạng” và không sợ “hết rượu” thì cần có sự hiện diện của thân mẫu và của Đức Giê-su. Nhất là nhận ra “vinh quang” của Người và “tin vào” Người. Với thứ “rượu chất lượng cao” Đức Giê-su ban tặng, vợ chồng có thể vượt qua những khó khăn thử thách trong đời hôn nhân và đứng vững trước những tác động tiêu cực đến từ bên trong cũng như bên ngoài.
Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai tại tiệc cưới, và giới thiệu với mọi người thứ “rượu mới” (so với Cựu Ước) có thể mang lại niềm vui đích thực cho đời sống hôn nhân. Tiếp theo Người dùng hình ảnh “sinh con” và “làm con” để nói về hành trình của người môn đệ.
“Sinh con” và “làm con”
Diễn tả thần học qua kinh nghiệm đời sống gia đình: “sinh con” và “làm con” là điểm độc đáo của Tin Mừng Gio-an. Đề tài này được trình bày qua 3 mục: (1) Cơn đau và niềm vui khi sinh con (16,21); (2) Được sinh ra một lần nữa (3,1-8); (3) Sinh ra làm con Thiên Chúa (1,12-13).
- Cơn đau và niềm vui khi sinh con (16,21)
Hình ảnh người phụ nữ sinh con là giai đoạn tiếp theo sau tiệc cưới với nỗi lo và niềm vui của đời sống hôn nhân và được so sánh với nỗi buồn và niềm vui của các môn đệ. Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su nói với họ ở 16,21-22: “22 Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn vì giờ của mình đã đến; nhưng sinh con rồi thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, vì niềm vui là một con người đã được sinh ra trong thế gian. 22 Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy khỏi anh emđược.” Sinh con là biến cố quan trọng trong đời người phụ nữ, lo lắng trước khi sinh và niềm vui của đại gia đình khi “mẹ tròn con vuông”. Tương phản giữa “lo lắng” trước và “vui mừng” sau khi sinh con được so sánh với nỗi buồn của các môn đệ khi Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó và niềm vui của họ khi gặp lại Đức Giê-su Phục Sinh. Đức Giê-su sẽ bị người ta giết chết và các môn đệ sẽ bị bách hại, nhưng Đức Giê-su hứa là “nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (16,20a), đó là niềm vui của người mẹ đã sinh con, vui vì “một con người đã được sinh ra trong thế gian” (16,21b). Đối với các môn đệ, có Đức Giê-su Phục Sinh ở với mình là niềm vui lớn lao và bền bỉ. Đó là niềm vui không ai lấy khỏi các môn đệ được (16,22c).
Qua so sánh hình ảnh người mẹ sinh con với hành trình người môn đệ, Đức Giê-su đề cao vai trò người mẹ, như thể chính các môn đệ cũng đang trải qua tiến trình sinh nở, phải trải qua đau đớn mới đạt tới niềm vui đích thực. Hình ảnh cưu mang và sinh nở còn áp dụng cho tất cả mọi công trình, mọi hoạt động của con người. Cưu mang công trình xây dựng, công trình nghiên cứu có thể kéo dài nhiều tháng đến nhiều năm, và hoàn thành được hay không vẫn còn ở phía trước. Có thể ví cuộc đời người môn đệ là một chuỗi cưu mang và sinh nở. Khác với những công trình trần thế có thể “gãy gánh dọc đường”, Đức Giê-su hứa cho những ai tin vào Người rằng, những nỗi đau trong hiện tại chắc chắn sẽ kết thúc trong niềm vui. Ước mong hình ảnh người phụ nữ sinh con trở thành biểu tượng và nguyên tắc sống cho đời sống hôn nhân và gia đình và nhất là đời người tin. Trong mọi khó khăn thử thách, sự hiện diện của Đức Giê-su là niềm vui lớn lao, sâu xa và bền bỉ.
Đặc biệt Đức Giê-su ban “niềm vui” và “bình an” cho các môn đệ ngay lúc họ đang xao xuyến và sợ hãi. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,27-28a: “27 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Không như thế gian ban mà chính Thầy ban cho anh em. Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi. 28a Anh em đã nghe chính Thầy đã nói với anh em: ‘Thầy ra đi và Thầy đến với anh em.’” Đức Giê-su phân biệt rõ “bình an của thế gian” và “bình an của Người” là thứ bình an có khả năng vượt qua và vượt lên trên “xao xuyến” và “sợ hãi” trong hiện tại. Thứ bình an ấy được bảo đảm bằng chính sự hiện diện của Đức Giê-su: “Thầy đến với anh em ” (14,28a).
Lắng nghe và đón nhận giáo huấn Đức Giê-su làm cho niềm vui của Người ở lại nơi các môn đệ, đó là niềm vui trọn vẹn như Đức Giê-su đã nói với họ ở 15,11: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em và niềm vui của anh em được trọn vẹn.” “Các điều ấy” là những gì Đức Giê-su đã nói trước đó, cụ thể là mặc khải về “tương quan giữa tình yêu”, “ở lại trong tình yêu” và “giữ các điều răn” (15,9-10); mặc khải về “người trồng nho”, “cây nho” và “cành nho” (15,1-8). Trong bối cảnh rộng hơn là mặc khải trong ch. 13 – 14 và đối với độc giả hôm nay, “các điều ấy” gợi đến toàn bộ giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Đó là những lời ban sự sống, lời đem lại bình an và niềm vui đích thực.
Tóm lại, niềm vui có hai chiều kích: (1) Niềm vui theo dòng thời gian (trước và sau) là niềm vui của người mẹ sau khi sinh con (buồn trước, vui sau). Niềm vui này đề cao biến cố Thương Khó và Phục Sinh là biến cố nền tảng trong đời sống các môn đệ, biến cố mang lại niềm vui đích thực. (2) Chiều kích thứ hai là niềm vui và bình an được ban xuống từ trên, đó là niềm vui và bình an ngay trong lúc đang gặp thử thách. Nghĩa là bình an và niềm vui của Đức Giê-su không làm biến mất gian nan khốn khó, nhưng có khả năng làm cho các môn đệ đứng vững và vượt qua thử thách. (Xem Giuse Lê Minh Thông, Khủng hoảng và giải pháp cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư,Hà Nội, nxb. Tôn Giáo, 2010, tr. 226-253; xem bài viết về đề tài này tại:http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com).
Qua hình ảnh nỗi buồn và niềm vui của người mẹ sinh con, đời sống hôn nhân và gia đình ví như những cuộc cưu mang và sinh nở không ngừng, nghĩa là luôn đối diện với những khó khăn, bấp bênh, mong manh. Nguy cơ hôn nhân đổ vỡ, xung đột gia đình vẫn còn đó. Giữa mây mù, bão tố làm sao có thể đứng vững và vượt qua? Tin Mừng mở ra con đường cho những ai muốn nếm hưởng bình an và niềm vui sâu xa, trọn vẹn và bền bỉ. Con đường đó là mở lòng ra đón nhận quyền năng và tình yêu của Đức Giê-su, bước vào tương quan với Người, lắng nghe và sống giáo huấn của Người, tin vào Người, xác tín Người đồng hành với ta trong gian nan thử thách. Lời cuối cùng Đức Giê-su nói với các môn đệ trước khi bước vào cuộc Thương Khó vừa là lời động viên, vừa là lời hứa chiến thắng mọi thử thách trong đời người môn đệ cũng như đời sống hôn nhân và gia đình: “Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng thế gian” (16,33b).
- Được sinh ra một lần nữa (3,1-8)
Ai trong chúng ta cũng được sinh ra bởi một người mẹ, nhưng để có thể thưởng thức thứ “rượu ngon”, trong niềm vui và bình an đích thực, thì cần được sinh ra một lần nữa. Đức Giê-su mặc khải cho Ni-cô-đê-mô ở 3,3: “A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Nếu ai không được sinh ra một lần nữa (anothen), thì không thể thấy vương quốc Thiên Chúa.” Đức Giê-su dùng tính từ Hy Lạp “anothen”, từ này có hai nghĩa: “một lần nữa” và “bởi trên”, Ni-cô-đê-mô hiểu theo nghĩa sinh ra “một lần nữa” nên hỏi lại: “Làm sao một người có thể được sinh ra khi đã già? Chẳng lẽ có thể trở vào lòng mẹ của mình lần thứ hai để được sinh ra sao?” (3,4) Đây là kỹ thuật hành văn hiểu lầm khi mặc khải của Đức Giê-su dị nghĩa, gây thắc mắc. Nhờ câu hỏi của nhân vật trong trình thuật, Đức Giê-su có dịp mặc khải ý nghĩa lời của Người. Kiểu hành văn hiểu lầm làm nổi bật tư cách mặc khải của Đức Giê-su ở 3,5: “A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Nếu ai không được sinh ra bởi nước và Thần Khí, thì không thể bước vào vương quốc Thiên Chúa.” Trong mạch văn, “sinh ra bởi nước và Thần Khí” là đón nhận sự sống mới Đức Giê-su ban tặng nhờ tin vào Người.
Khi tin vào Đức Giê-su chúng ta đã được sinh ra “một lần nữa”, sinh ra “bởi trên”, liệu các thành viên trong gia đình có chính mình được sinh ra “một lần nữa” để “vào vương quốc Thiên Chúa” (3,5) không? Các bậc cha mẹ đã sinh con về thể lý, được mời gọi lo lắng để con mình được sinh ra một lần nữa trong niềm tin.
- Sinh ra làm con Thiên Chúa (1,12-13)
Con cái là thành phần của đời sống gia đình. Lời tựa Tin Mừng nói đến mục đích là làm cho mọi người tin trở thành con cái Thiên Chúa. Tác giả viết ở 1,12-13: “12 Nhưng những ai đã đón nhận Người [Lời, Logos], Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ là những người tin vào danh của Người. 13 Họ được sinh ra không bởi khí huyết, cũng không bởi ước muốn của người phàm, cũng không bởi ước muốn của đàn ông, nhưng bởi Thiên Chúa.” Ở đây, “quyền trở nên con Thiên Chúa” dành cho những ai “đón nhận” “Lời (Logos) trở thành người phàm” (1,14a) là Đức Giê-su. Như thế Tin Mừng dùng hình ảnh “con cái” trong gia đình để nói về “con cái” Thiên Chúa. Con cái trong gia đình được cha mẹ sinh ra, còn con cái Thiên Chúa thì được sinh ra bởi Thiên Chúa nhờ tin vào Đức Giê-su. Người tin có Thiên Chúa là Cha, tuy nhiên điều này còn lệ thuộc vào hành động và lựa chọn cụ thể (xem “III.3. Ai là cha, Thiên Chúa hay quỷ?”).
III. Gia đình ruột thịt và gia đình người tin
Qua hình ảnh gia đình, Tin Mừng xây dựng gia đình mới trong niềm tin. Điều này sẽ trình bày qua ba mục: (1) Một gia đình mới khai sinh dưới chân thập giá; (2) Trở thành anh chị em trong gia đình mới; (3) Ai là cha? Thiên Chúa hay quỷ? (Ga 8,31-44).
- Gia đình mới khai sinh dưới chân thập giá (19,25-27)
Những gì xảy ra dưới chân thập giá có ý nghĩa thần học đặc biệt quan trọng. Người thuật chuyện kể ở 19,25-27: “25 Vậy đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu của Người và chị của thân mẫu Người, Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát và Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi Đức Giê-su thấy thân mẫu và môn đệ đứng bên cạnh, – môn đệ Người yêu mến –, Người nói với thân mẫu: ‘Thưa bà, đây là con của bà.’ 27 Rồi Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh.’ Và kể từ giờ đó, người môn đệ đón nhận mẹ về nhà mình.”
Tên riêng thân mẫu Đức Giê-su: “Ma-ri-a” không xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an. Tin Mừng này chỉ dùng cách gọi: “thân mẫu” của Đức Giê-su (10 lần: 2,1.3.5.12; 6,42; 19,25a.25b.26a.26b.27). Điều này đề cao chức năng làm mẹ trong tương quan với con mình là Đức Giê-su. Thân mẫu Đức Giê-su chỉ xuất hiện hai lần trong Tin Mừng: ở đầu Tin Mừng trong tiệc cưới Ca-na và ở cuối Tin Mừng dưới chân thập giá.
Đức Giê-su gọi Mẹ của Người là “gunê” (bà, người nữ) ở tiệc cưới Ca-na (2,4) và dưới chân thập giá (19,26). Kiểu xưng hô này gợi đến “người đàn bà” trong lời Đức Chúa phán với con rắn ở đầu sách Sáng thế: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Như thế, thân mẫu Đức Giê-su, đại diện dân Ít-ra-en, thừa hưởng lời Đức Chúa đã hứa. Mẹ giới thiệu Con của Mẹ ở đầu Tin Mừng (tiệc cưới Ca-na), Con của Mẹ giới thiệu cho Mẹ một người con khác là môn đệ Người yêu mến vào cuối Tin Mừng (lúc Người hấp hối trên thập giá). Qua đó, Đức Giê-su thiết lập gia đình mới gồm những kẻ tin vào Người. Một gia đình mà Người yêu mến những kẻ thuộc về Người cho đến cùng (về thời gian), cho đến tột cùng (về mức độ): hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Từ nay, tương quan gia đình ruột thịt (Đức Giê-su và thân mẫu Người) được mở rộng thành tương quan gia đình người tin.
Lời trăng trối của Đức Giê-su với thân mẫu: “Thưa bà, đây là con của bà” (19,26b) và với môn đệ Người yêu mến: “Đây là mẹ của anh” (19,27a) được trình bày theo lối văn mặc khải thần học. Đức Giê-su mặc khải cho thân mẫu sứ vụ làm mẹ môn đệ Người yêu mến, và mặc khải cho người môn đệ này tư cách làm con thân mẫu của Người. Mối tương quan mới trong tư cách “làm mẹ” và “làm con” khai sinh cộng đoàn Hội Thánh qua chi tiết: “Và kể từ giờ đó, người môn đệ đón nhận (elaben) bà về nhà mình” (19,27b). Không phải thân mẫu đón nhận người môn đệ về nhà thân mẫu mà là người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đón nhận thân mẫu về nhà mình. Động từ “lambanô” (đón nhận, nhận lấy, tiếp đón) ở 19,27b vừa diễn tả nối kết giữa dân Ít-ra-en với cộng đoàn các môn đệ Đức Giê-su, vừa diễn tả sự mới mẻ và đứt đoạn với Cựu Ước. Cộng đoàn người tin trở thành nơi đón nhận ơn cứu độ và sự sống đời đời, nơi nhận biết Thiên Chúa và bước vào tương quan với Người.
Như thế lời hứa cứu độ của Đức Chúa dành cho toàn thể nhân loại nói chung và dành cho dân Ít-ra-en nói riêng đã được thực hiện trong sự kiện thân mẫu Đức Giê-su hội nhập vào cộng đoàn môn đệ Đức Giê-su mà đại diện là môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Trước khi rời khỏi thế gian về với Cha, qua lời trăng trối, Đức Giê-su thiết lập gia đình mới là cộng đoàn Hội Thánh. (Xem Giuse Lê Minh Thông, Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?, Nxb. Phương Đông, 2010, tr. 234-139). Ước mong các thành viên trong gia đình ruột thịt họ hàng thực sự bước vào gia đình mới trong lòng tin, có thân mẫu Đức Giê-su là mẹ, có Thiên Chúa là cha, có Đức Giê-su là anh, và mọi người tin trở thành anh chị em với nhau.
- Trở thành anh chị em trong gia đình mới
Tin Mừng dùng từ “adelphos” (anh em), và “adelphê” (chị em), để nói vềquan hệ ruột thịt, họ hàng, cũng như tương quan anh chị em trong cộng đoàn người tin. Phần này sẽ trình bày 3 điểm: (1) Anh chị em ruột thịt, họ hàng; (2) Trở thành anh em của Đức Giê-su; (3) Người tin là anh chị em với nhau.
(1) Trong tương quan anh, chị, em, tiếng Hy Lạp không phân biệt tuổi tác lớn (anh, chị) hay nhỏ (em), có thể dựa theo truyền thống Kinh Thánh, em thường nổi bật hơn anh (Ca-in – A-ben; E-sau – Gia-cóp; Đa-vít là em út…) để gọi An-rê là “anh” và Si-mon Phê-rô là “em”. Từ “adelphos” được dùngđể nói về hai anh em An-rê và Phê-rô (1,40.41; 6,8), và nói về “anh em của Đức Giê-su” (2,12; 7,3.5.10). Về gia đình ba chị em ở làng Bê-ta-ni-a, bản văn dùng từ “adelphos” (giống đực) để nói về La-da-rô (11,2.19.21.23.32) và từ “adelphê” (giống cái) để nói về hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a (11,1.3.5.28.39).
Câu chuyện La-da-rô mở đầu ở 11,1: “Có một người bệnh là La-da-rô ở Bê-ta-ni-a, làng của Ma-ri-a và Mác-ta, chị của cô ấy.” Đức Giê-su yêu mến ba chị em gia đình này (11,5) nhưng không đến cứu La-da-rô khỏi bệnh (11,6). Và điều gì phải đến đã đến, La-da-rô đã chết 4 ngày (11,39), Đức Giê-su mới tới thăm gia đình. Người không đến cứu La-da-rô để mặc khải cho mọi người biết rằng chết thể lý là thân phận làm người, sứ vụ của Đức Giê-su không phải cứu con người khỏi chết về thể lý. Việc Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43) không đề cao sự sống thể lý mà là dấu chỉ về sự chết và sự sống lại của Đức Giê-su. Dấu lạ này nhằm minh chứng lời Đức Giê-su mặc khải cho Mác-ta ở 11,25-26a: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26a và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết.” Qua gia đình ba chị em, Đức Giê-su bày tỏ tình yêu của Người đến tất cả mọi gia đình và Người đem đến cho người tin điều lớn lao hơn cả việc sống lại về thể lý: Bất kỳ ai tin vào Đức Giê-su thì ngay bây giờ đã có sự sống đời đời rồi. Liệu gia đình người tin hôm nay có tin và cảm nhận sự sống đời đời Đức Giê-su ban tặng nơi mình không? Sự sống mới này làm cho người tin trở thành “anh em của Đức Giê-su” và “anh chị em với nhau”.
(2) Trong sứ vụ công khai, Đức Giê-su gọi những ai tin vào Người là “môn đệ” (13,35), là “bạn hữu” (15,14.15), chỉ sau khi Phục Sinh (20,17), Người mới gọi các môn đệ là “anh em” (adelphos). Đức Giê-su nói với Ma-ri-a ở 20,17: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Cha. Nhưng hãy đi đến với anh em (adelphous) của Thầy và nói với họ: ‘Thầy lên cùng Cha củaThầy cũng là Cha của anh em (humôn), Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em (humôn)’.” Câu này có 3 lần từ “anh em” trong tiếng Việt, nhưng chỉ lần đầu tiên dùng từ “adelphos” (anh em) còn hai lần sau là đại từ ngôi thứ 2 số nhiều: “humôn” (của anh em). Danh từ “adelphos” ở 20,17 có ý nghĩa thần học. Sau khi được tôn vinh, Đức Giê-su đưa các môn đệ vào trong tương quan mới mẻ với Người và với Cha của Người. Từ nay các môn đệ trở thành anh em của Đức Giê-su và có cùng Cha và cùng Thiên Chúa với Đức Giê-su.
Dầu vậy, Đức Giê-su vẫn phân biệt “Thiên Chúa của Thầy” và “Thiên Chúa của anh em”; “Cha của Thầy” và “Cha của anh em” (20,17). Đức Giê-su không nói “Thiên Chúa của chúng ta”. Kiểu nói trên nhấn mạnh sự khác biệt giữa cương vị của Đức Giê-su là Con Một Thiên Chúa (1,18), và vị trí của các môn đệ. Đức Giê-su khác với các môn đệ vì Người có nguồn gốc từ trời (6,38) và Người hiệp thông nên một với Chúa Cha (10,30; 14,11). Đồng thời Người là đối tượng niềm tin của các môn đệ. Vì thế, các môn đệ là anh em của Đức Giê-su, nhưng không trên cùng một bình diện. Điều lớn lao là Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành anh em của Người và như thế mọi người tin là anh chị em với nhau.
(3) Cuối Tin Mừng (21,23) cộng đoàn người tin được gọi là anh em(adelphos). Cách xưng hô này được người thuật chuyện nói đến khi nói về thân phận người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Khi Phê-rô hỏi Đức Giê-su về người môn đệ này (21,21b), Đức Giê-su trả lời: “Nếu Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Thầy” (21,22). Người thuật chuyện cho biết ở 21,23: “Vậy có lời đồn giữa anh em (adelphous) là người môn đệ ấy không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông ấy là ‘Anh ấy không chết’, mà là ‘Giả như Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến [, thì việc gì đến anh?]’” Trong bối cảnh sau Phục Sinh, cộng đoàn người tin trở thành anh chị em với nhau (adelphos). Từ hình ảnh anh chị em trong gia đình ruột thịt, Tin Mừng Gio-an xây dựng tương quan anh em mới mẻ trong niềm tin và trong tự do.
- Ai là cha, Thiên Chúa hay quỷ? (8,31-44)
Dấn thân làm con cái Thiên Chúa, làm anh em của Đức Giê-su và làm anh chị em với nhau là quyết định hoàn toàn tự do. Nghĩa là các môn đệ có thể quyết định thôi không theo Đức Giê-su nữa, điều này đã xảy ra trong Tin Mừng. Sau khi Nghe diễn từ về bánh sự sống, “nhiều môn đệ của Người bỏ đi và không còn đi với Người nữa” (6,66). Tự do quyết định, theo hay không theo Đức Giê-su, vừa đề cao sự dấn thân của các môn đệ, vừa cho thấy đó là lựa chọn không bị ép buộc hay bị áp lực. (Xem, Giu-se Lê Minh Thông, Tình yêu và tình bạn trong Ga 15,9-17, Nxb. Phương Đông, 2010, tr. 257-261).
Hơn nữa, tư cách “môn đệ Đức Giê-su”, tư cách “con cái Thiên Chúa” còn được xác định qua hành động và lựa chọn cụ thể trong cuộc sống. Câu hỏi đặt ra cho những người Do Thái trong đoạn văn Ga 8,31-44: ai thực sự là cha, Thiên Chúa hay quỷ? cũng là câu hỏi đặt ra cho tất cả mọi người.
Tranh luận trong đoạn văn Ga 8,31-44 nhằm làm rõ ai là cha thực sự của những người Do Thái. Trong đoạn văn này họ khẳng định là con cháu Áp-ra-ham và có Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải thế. Tại sao? Trước hết, họ nói với Đức Giê-su: “Cha của chúng tôi là Áp-ra-ham” (8,39a), nhưng Đức Giê-su phủ nhận điều này khi nói với họ: “39b Nếu các ông là con cái Áp-ra-ham, các ông đã làm những việc của Áp-ra-ham. 40 Nhưng bây giờ các ông tìm giết Tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà Tôi đã nghe nơi Thiên Chúa. Điều đó, Áp-ra-ham đã không làm. 41a Còn các ông, các ông làm những việc của cha các ông” (8,39b-41a). Từ “cha” trong câu này nói về ai? Ở đây chưa có câu trả lời. Những người Do Thái nói tiếp: “Chúng tôi không phải là con đẻ hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa” (8,41b). Nhưng Đức Giê-su cũng phủ nhận lời này ở 8,42: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ông, các ông đã yêu mến Tôi, vì chính Tôi phát xuất và đến từ nơi Thiên Chúa. Tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Đấng ấy đã sai Tôi.”
Như vậy, cha của họ không phải là Áp-ra-ham, cũng chẳng phải là Thiên Chúa. Đức Giê-su cho biết ai là cha của họ ở 8,44: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông. Ngay từ đầu, nó đã là kẻ sát nhân, và nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói, nó nói theo bản tính của nó là sự gian dối, vì nó là kẻ nói dối, và là cha của sự gian dối.” Tại sao họ lại có cha là quỷ trong khi trên “giấy tờ” họ là con cháu Áp-ra-ham (8,33.39) và có Cha là Thiên Chúa (8,41b) và họ khẳng định như thế? Điều làm cho họ mất tư cách con cháu Áp-ra-ham và có Thiên Chúa là Cha là vì hành động cụ thể của họ: không tin vào Đức Giê-su và đang tìm giết Người (8,37.40). Chính hành động thù nghịch với Đức Giê-su làm cho họ trở thành những người có cha là quỷ. Điều trớ trêu là họ không còn có Cha là Thiên Chúa nữa mà họ không biết.
Câu hỏi đặt ra cho những người được gọi là “con cái Thiên Chúa” là họ còn thực sự có Cha là Thiên Chúa hay không? Câu trả lời ở nơi lựa chọn và hành động trong cuộc sống thường ngày. Vấn đề thuộc về ai, “thuộc về Đức Giê-su” hay “thuộc về thế gian”, “thuộc về sự thật” hay “thuộc về sự dối trá”, “thuộc về Cha là Thiên Chúa” hay “thuộc về cha là quỷ” vẫn là thách đố và là lời chất vấn mọi người tin trong lựa chọn hằng ngày.
Kết luận
Đề tài hôn nhân và gia đình trong Tin Mừng được đề cao qua từ ngữ: “tiệc cưới”, “sinh con”, “làm con”, cùng với các tương quan trong gia đình như “mẹ – con”, “cha – con”, “anh chị em ruột thịt”, “anh chị em họ”… Tin Mừng đề cao những hình ảnh đẹp về hôn nhân và gia đình qua sự hiện diện của thân mẫu Đức Giê-su, chính Đức Giê-su và các môn đệ ở tiệc cưới Ca-na; qua việc dấn thân làm môn đệ của hai anh em An-rê và Si-môn; qua tương quan tình bạn và tình yêu giữa gia đình ba chị em ở Bê-ta-ni-a và Đức Giê-su; qua sự hiện diện của thân mẫu, chị của thân mẫu dưới chân thập giá Đức Giê-su.
Từ hình ảnh hôn nhân và gia đình trần thế, Tin Mừng xây dựng gia đình người tin với những từ ngữ: sinh ra một lần nữa để làm con Thiên Chúa, tin vào Đức Giê-su để trở thành anh em của Người, trở thành con cái cùng một Cha. Từ nay mọi người tin trở thành anh chị em với nhau, anh em của Đức Giê-su, cùng nhau sống sự sống mới, sự sống đích thực Đức Giê-su ban tặng. Sự sống này được diễn tả bằng thứ “rượu ngon hảo hạng” như trong tiệc cưới Ca-na; bằng niềm vui bền bỉ và bình an sâu xa để đứng vững và vượt qua thử thách; bằng tình liên đới, tình yêu và tình bạn với Đức Giê-su và với nhau.
Tuy vậy, hành trình “làm con cái Thiên Chúa”, “làm anh em với Đức Giê-su” và “làm anh chị em với nhau” vẫn luôn là thách đố qua lựa chọn và quyết định hằng ngày. Tin Mừng mời gọi mọi thành viên trong gia đình mới sống và hành động theo giáo huấn của Đức Giê-su, thuộc về sự thật và làm theo sự thật, tin vào Đức Giê-su và tin vào quyền năng của Người. Điều này cần được thể hiện qua đời sống cụ thể hằng ngày.
Bài viết này không thể trình bày hết các trình thuật liên quan đến hôn nhân và gia đình trong Tin Mừng, chẳng hạn Gio-an Tẩy Giả nói về “chú rể” và “bạn của chú rể” (3,29-30); dấu lạ thứ hai ở Ca-na là hành trình của người cha tìm cách cứu sống con mình (4,43-54) với phần kết: “Ông ấy và cả nhà của ông đã tin” (4,53b). Hình ảnh hôn nhân và gia đình hiển nhiên giữ vai trò quan trọng trong sứ vụ của Đức Giê-su. Đồng thời, Đức Giê-su đem lại quà tặng lớn lao và ý nghĩa đích thực cho đời sống hôn nhân và gia đình trần thế./.
Giáo hội với Hội thánh khác nhau ở chỗ nào?
Trong các sách vở, trong các bài giảng, cũng như trong những cuộc giao tiếp hằng ngày, lúc thì người ta nói “Giáo hội công giáo” lúc thì “Hội thánh công giáo”. Hai từ ngữ đó, “Giáo hội” và “Hội thánh”, có đồng nghĩa với nhau hay không? Nếu không thì khác nhau ở chỗ nào?
Trước khi trả lời cho những câu hỏi vừa nêu, chúng tôi xin phép ghi nhận một sự kiện về ngôn ngữ tôn giáo ở Việt Nam. Nếu tôi không lầm, thì chỉ có Phật giáo dùng tiếng “Giáo hội” (Giáo hội Phật giáo), chứ không ai nói tới Giáo hội Khổng giáo! Còn hình như không có ai dùng tiếng “Hội thánh” ngoại trừ anh em Tin lành (chúng ta thấy tiếng “Hội thánh Tin lành” được dùng nhiều hơn là “Giáo hội Tin lành”). Như vậy thì trong Việt ngữ, đã có một sự khác biệt về cách áp dụng rồi đó. Còn tại sao lại có sự khác biệt đó, thì tôi xin thú nhận là chưa đủ khả năng trả lời, bởi vì cần phải khảo cứu lịch sử ngôn ngữ Việt Nam để xem những danh từ đó đã xuất hiện từ hồi nào. Chắc chắn là tiếng “Giáo hội Phật giáo” chỉ mới ra đời trong thời gian gần đây, chứ không có trong văn chương cổ truyền. Như chị đã biết, bên Đông phương, người ta quan niệm tôn giáo như là “đạo”, nghĩa là con đường (đạo Phật); hay là “giáo”, nghĩa là lời dạy (Phật giáo). Người nào chấp nhận con đường hay lời dạy đó thì gọi là tín đồ, Phật tử. Các tôn giáo ở Đông phương xem ra không đặt nặng vấn đề cơ cấu tổ chức; vì vậy mà tôi nghĩ rằng họ không có nói tới “Giáo hội”.
Như vậy, “Giáo hội” ám chỉ cái cơ cấu của một tôn giáo, phải không?
Theo tôi nghĩ, thì đúng như vậy. Tuy nhiên, như đã nói trên đây, tôi không có dịp tra cứu lịch sử ngôn ngữ học, để xem tiếng “Giáo hội” xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ năm nào. Giới hạn vào Công Giáo, chúng ta thấy rằng hai tiếng “Giáo hội” và “Hội thánh” đều được dùng để dịch cùng một từ trong các tiếng Âu châu: ecclesia tiếng La-tinh, église tiếng Pháp, hay là church trong tiếng Anh.
Con không có rành tiếng La-tinh cho nên không biết ý nghĩa của nó; nhưng mà chữ “église” trong tiếng Pháp có nghĩa là “nhà thờ” nữa, phải không?
Không phải chỉ có tiếng Pháp, mà cả tiếng La-tinh và tiếng anh, “ecclesia” (église, church), vừa có nghĩa là Giáo hội hay hội thánh, lại vừa có nghĩa là nhà thờ nữa.
Có phải tại vì “nhà thờ” tượng trưng cho công giáo, cũng như “nhà chùa” tượng trưng cho Phật giáo hay không?
Có thể là ở Việt Nam đã có người hiểu như vậy. Một lần nữa, tôi xin nhường câu trả lời cho các nhà ngữ học, để xem sự đối chiếu ấy bắt đầu từ bao giờ. Theo tôi, thì trong các thế kỷ trước, khi muốn đối chiếu giữa Thiên Chúa giáo với Phật giáo, thì người ta dùng tiếng “nhà Chúa” để đối lại với “nhà chùa”, chứ không dùng tiếng “nhà thờ”; bởi vì tiếng “nhà thờ” ám chỉ nơi dùng vào việc thờ cúng tổ tiên. Trong xã hội cổ truyền, mỗi gia đình có bàn thờ để kính tổ tiên; còn mỗi dòng họ thì có nhà thờ để kính thủy tổ của tộc. Do đó nhà thờ không thể nào làm biểu hiệu cho Thiên Chúa giáo được.
Nãy giờ, có bao nhiêu câu hỏi mà cha đã dành cho các nhà ngữ học trả lời thay. Bây giờ xin cha vui lòng giải đáp câu hỏi: Giáo hội công giáo và Hội thánh công giáo có gì khác nhau hay không?
Như trên đã nói, xét theo nguyên ngữ thì cả hai đều phát xuất bởi một danh từ duy nhất trong tiếng La-tinh, hoặc tiếng Pháp, tiếng Anh. Dĩ nhiên, bây giờ tới lúc phải hỏi xem: thế thì ecclesiacó nghĩa là gì? Nên biết là muốn đi tìm gốc của tiếng Ecclesia, thì chúng ta phải quay sang tiếng Hy-lạp, tức là nguyên ngữ của Tân ước. Trong tiếng Hy-lạp, ekklesia có nghĩa là sự triệu tập, tụ họp, hội nghị. Khi dịch Cưụ ước từ tiếng Do thái ra tiếng Hy-lạp, thì người ta đã dùng tiếng ecclesia để chuyển nghĩa cái từ “qahal”. Dân Israel đã dùng tiếng đó để ám chỉ cộng đoàn phụng vụ, nghĩa là những người được tụ họp lại để nghe lời Chúa; rồi dần dần chính dân Israel cũng tự coi mình là “qahal” bởi vì họ ý thức rằng sở dĩ các bộ lạc lẻ tẻ đã trở thành một dân tộc là nhờ bởi Chúa đã quy tụ lại: họ là đoàn dân của Chúa, được Chúa quy tụ, và kết lập giao ước. Do đó, ý tưởng chủ chốt trong từ ngữ “ecclesia” (Hy-lạp) hay “qahal” (Do thái) là việc một đoàn dân được Chúa triệu tập, quy tụ. Sang thời Tân ước, các Kitô hữu lấy lại ý tưởng đó, khi gọi mình là “ecclesia”. Thực ra thì trong Tân ước, người ta thấy một từ ngữ “qahal” từ tiếng Do thái đã được dịch ra hai từ ngữ khác nhau:synagoga, nếu ám chỉ Israel (chúng ta thường dịch synagoga là: hội đường), và ecclesia, nếu ám chỉ các Kitô hữu. Qua lối sử dụng từ ngữ như vậy, các nhà chú giải Kinh thánh nhận thấy rằng: các Kitô hữu vừa muốn nêu bật sự liên tục với Israel, lại vừa muốn vạch ra sự khác biệt. Liên tục ở chỗ ý thức rằng các Kitô hữu được quy tụ lại không phải do máu mủ hay là do hợp đồng ý chí, song là do Chúa triệu tập lại. Đây là một cộng đoàn được thành hình do ý định của Thiên Chúa, dựa trên giao ước của Chúa. Nhưng mà đàng khác, các Kitô hữu cũng muốn phân biệt mình với Dân Israel, bởi vì thủ lãnh của họ là đức Kitô, người mục tử đã quy tụ một đoàn chiên mới cho Thiên Chúa qua cái chết của mình.
Như vậy, dịch ra tiếng Việt là “Giáo hội” hay “Hội thánh” thì sát nghĩa lắm rồi, phải không)?
Trong cả hai tiếng “Giáo hội” và “Hội thánh”, chúng ta đều thấy có tiếng “hội”. Nếu mà hiểu “hội” theo nghĩa là “hội họp”, “lễ hội” thì quả thực là sát với nguyên gốc trong Kinh thánh. Có lẽ người ta đã thêm tiếng “Giáo” để nêu bật rằng sự hội họp đó có tính cách “tôn giáo”, để lắng nghe lời Chúa và thờ phượng Ngài, chứ không phải họp nhau để đấu láo hay là bàn chuyện chính trị. Tiếc rằng nhiều lần, chúng ta nghĩ tới “Giáo hội” theo nghĩa của một cơ cấu tổ chức, hơn là nghĩ tới chiều kích năng động của nó: tức là một cộng đoàn được Lời Chúa quy tụ lại để lắng nghe và đáp lại Lời Chúa.
Thế còn “Hội thánh” thì sao?
Thiết tưởng có thể hiểu theo hai nghĩa. Một đàng thì muốn nhấn mạnh tính cách phụng tự của các buổi hội. Như vừa nói, chúng ta hội nhau lại để phụng thờ Chúa, chứ không phải để nhậu nhẹt hay đấu láo. Nghĩa thứ hai, thì nhấn mạnh tới tư cách của những người tham dự buổi hội. Họ là những người “thánh”. Tư tưởng này gặp thấy nơi các tác phẩm của thánh Phaolô: các Kitô hữu được gọi là “thánh”, không phải bởi vì họ đã trở thành siêu nhân, nhưng vì họ đã được rửa sạch khỏi tội lỗi, qua bí tích Thánh tẩy; họ được thánh hóa do chính sự tuyển lựa của Thiên Chúa là Đấng thánh. Vì vậy mà họ họp nhau thành một cộng đoàn các thánh nhân.
Nói như vậy thì chừng nào các Kitô hữu họp nhau lại thì mới thành Giáo hội hay Hội thánh; còn họp xong rồi thì Giáo hội cũng giải tán luôn?
Trong Tân ước, chúng ta thấy tiếng “ecclesia” bao hàm rất nhiều chiều kích. Có lúc thì nó có chiều kích năng động, ám chỉ một buổi hội họp. Theo nghĩa đó, thì dĩ nhiên, khi tan họp thì cũng hết ecclesia. Tuy nhiên có lúc thì nó mang một chiều kích tĩnh, ám chỉ một đoàn thể bao gồm tất cả các Kitô hữu, vượt lên trên điều kiện không gian và thời gian. Từ đó mà ta có hai quan điểm về ecclesia: một quan điểm vượt không gian và thời gian (quen gọi là Giáo hội phổ quát hay hoàn vũ), và một quan điểm gắn với không gian (quen gọi là Giáo hội địa phương). Giáo hội phổ quát hay hoàn vũ bao gồm không những là hết tất cả các tín hữu ở khắp nơi trên mặt đất, mà còn cả các tín hữu còn sống hoặc đã qua đời. Nói khác đi, theo nghĩa này, Hội thánh gồm các tín hữu còn lữ hành lẫn những phúc nhân trên trời cũng như các linh hồn đang được thanh luyện. Tất cả họp thành một Hội thánh duy nhất của đức Kitô, họp thành một thân thể mầu nhiệm mà chính Đức Kitô làm đầu. Tuy nhiên, trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư của thánh Phaolô, tiếng ecclesia còn ám chỉ những cộng đoàn của các tín hữu thuộc từng vùng, từng miền, từng chỗ. Vì vậy mà có rất nhiều “Ecclesia”. Trong tiếng Việt, chúng ta thường dịch là “ giáo đoàn”, thí dụ giáo đoàn Rôma, Corintô, Ephêsô, vv. Riêng thánh Phaolô thì ngài thích dùng lối nói “Hội thánh Chúa ở Rôma, Corintô”.
Như vậy, cùng là một từ “ecclesia” mà dịch ra tiếng Việt thành ba từ khác nhau: Giáo hội, Hội thánh, giáo đoàn.
Đâu phải chỉ có ba mà thôi, còn nhiều nữa: nhà thờ, thánh đường, giáo đường. Tại sao như vậy? Như vừa nói, trong Tân ước, tiếng “ecclesia” khi mà hiểu theo nghĩa năng động thì ám chỉ buổi hội họp của các tín hữu. Họ họp nhau ở đâu thì chỗ đó là “ecclesia”, dù là ngoài trời, hay là ở trong tư thất. Chị đã biết là trong những thế kỷ đầu, Kitô giáo còn bị bách hại, cho nên các tín hữu không có nơi thờ tự nhất định. Mãi đến khi họ được hưởng tự do tín ngưỡng, thì họ mới bắt đầu xây cất những nơi thờ tự. Và họ đặt tên cho địa điểm ấy là “ecclesia” (hay: domus ecclesiae), nghĩa là chỗ cho các tín hữu tụ họp nhau lại để cầu nguyện. Từ đó ta thấy có sự chuyển nghĩa: lúc đầu thì ecclesia được dùng để chỉ nhóm người tụ họp nhau, đến nỗi có thể nói được rằng hết họp thì cũng hết ecclesia. Về sau, thì ecclesia được dùng để chỉ nơi tụ họp, và cho dù chẳng có ai họp nữa thì nơi đó cũng được gọi là ecclesia như thường! Trong các tiếng La-tinh và các ngôn ngữ Âu châu, một tiếng ecclesia vừa ám chỉ cộng đoàn Kitô hữu vừa ám chỉ nơi thờ phượng. Đến khi dịch ra Việt ngữ, thì chúng ta gọi cộng đoàn là “Giáo hội, hội thánh, giáo đoàn”; còn nơi thờ phượng thì được gọi là: “nhà thờ, thánh đường, giáo đường”.
(Giuse Phan Tấn Thành, OP)
Thiên thần Sêraphim là ai?
Hồi cuối tháng 9, phụng vụ đã mừng lễ kính các tổng lãnh thiên thần Micael, Gabriel, Raphael. Vào đầu tháng 10, có lễ kính các thiên thần hộ thủ. Các tổng lãnh thiên thần khác với các thiên thần thế nào? Ở Việt Nam, có nhiều ca đoàn mang tên thiên thần Sêraphim. Tại sao không có lễ kính thiên thần Sêraphim? Sêraphim là ai vậy? Sêraphim và Kêrubim có khác nhau hay không?
Trước nhiều câu hỏi dồn dập như vậy, tôi xin tách ra từng câu hỏi để trả lời, từ dễ đến khó. Câu hỏi dễ nhất là sự phân biệt giữa các tổng lãnh thiên thần với các thiên thần. Đó là hai cấp độ cao thấp: tổng thiên thần (archangelus) thì cao hơn thiên thần (angelus), cũng tựa như tổng giám mục (archiepiscopus) thì cao hơn giám mục (episcopus). Duy có điều là sự phân biệt này không phải do Kinh thánh đặt ra.
Nhưng mà Kinh thánh có nói đến các tổng thiên thần Micael, Gabriel, Raphael đấy chứ?
Đúng rồi. Ba nhân vật ấy đều được Kinh thánh nói đến. Nhưng mà họ được gọi là “thiên thần” chứ không phải là “tổng thiên thần”. Chẳng hạn như khi tả lại cảnh truyền tin cho Đức Maria, thì thánh Luca nói đến một thiên thần (Gabriel). Luôn tiện cũng nên nhắc lại là Kinh thánh không dùng tiếng “thiên thần” (thần trên trời); danh từ angelus trong nguyên bản Hy-lạp (angelos) chỉ có nghĩa “sứ giả” (người đưa tin), cũng tựa như trong tiếng Do thái của Cựu ước (malak). Có điều là các vị được gọi là “sứ giả của Thiên Chúa” (angelus Domini) khác với các sứ giả của loài người. Vì thế mà tại Việt Nam có người dịch là “thiên sứ”. Dĩ nhiên đó chỉ là một chức vụ (nghĩa là họ được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng nào đó) chứ chúng ta không biết được tên tuổi căn cước của họ.
Như thế Micael, Raphael, và Gabriel không phải là tên riêng hay sao?
Chị nên biết là không ai có thể xác định được con số của các thiên sứ. Trong số muôn vàn thiên sứ, Kinh thánh có nhắc đến vài vị xem ra có danh tánh riêng, tựa như Micael, Raphael, Gabriel. Nhưng mà các chú giải Kinh thánh cũng hoài nghi, không chắc có phải là tên riêng hay chỉ là biệt hiệu nhằm diễn tả một sứ vụ của họ. Theo nguyên gốc Do thái, Micael có nghĩa là “ai bằng Thiên Chúa?”, được nói tới trong Cựu ước ớ sách Đaniel (10,13), quen được giải thích là vị lãnh đạo các thiên sứ để đương đầu với Satan (Khải huyền 12,7-12). Raphael theo nguyên ngữ, có nghĩa là “Thiên Chúa cứu chữa”, và xuất hiện trong sách ông Tobit. Gabriel có nghĩa là “người của Thiên Chúa” cũng được nói tới ở sách Đaniel (8,16; 9,21-22) và cách riêng trong Tin mừng theo thánh Luca, khi tả lại cảnh truyền tin cho ông Dacaria và cho Đức Maria (Lc 1,19.26). Chính vì thế mà trước đây, phụng vụ đã dành ra ba ngày để kính ba vị: Micael (29 tháng 9), Raphael (24 tháng 10), và Gabriel (24 tháng 3). Với cuộc cải tổ phụng vụ sau công đồng Vaticanô II, chỉ còn một ngày kính chung cả ba vị, (có lẽ tại vì không phải là ba vị khác nhau nhưng chỉ là ba sứ vụ).
Tuy vậy, ba vị được gọi là tổng thiên thần, cao hơn các thiên thần hộ thủ một cấp, phải không?
Như đã nói trên đây, Kinh thánh gọi các vị là thiên thần (hay thiên sứ) chứ chẳng phải là “tổng thiên sứ”. Và theo sách Đaniel (10,21; 12,1) Micae cũng được coi là thiên thần hộ thủ, không phải là của một cá nhân mà thôi nhưng là hộ thủ của toàn thể dân Chúa. Mãi đến cuối thời Tân ước, lá thư của Giuđa (câu 9) mới gọi Micae là tổng thiên sứ. Sang thời các giáo phụ, một tác giả vô danh sống thế kỷ VI, dưới danh nghĩa là Điônisiô, mới bày ra thuyết về 9 phẩm thiên thần trong tác phẩm De Caelesti Hierarchia (Phẩm trẩt trên trời). Dựa theo mô hình của tiến trình hướng về sự toàn thiện (gồm có ba chặng: thanh luyện, soi sáng và hoàn bị), ông chia các thiên sứ thành 3 cấp và mỗi cấp gồm ba đẳng. Từ đó nhân ra thành 9 đẳng, quen gọi là 9 phẩm thiên thần, tương tự với cửu phẩm trong hàng triều thần đời xưa.
Chín đẳng thiên thần gồm các cấp nào?
Ông Điônisiô đặt đẳng thấp nhất là các thiên thần và đẳng cao nhất là thần Kêrubim. Lần lượt đi từ dưới lên, ông bắt đầu với các thiên thần , với nhiệm vụ gìn giữ loài người (quen gọi là thiên thần hộ thủ). Cấp thứ hai là các tổng thiên thần mà chúng ta đã biết danh tánh (Micael, Raphael, Gabriel), được ủy thác vài sứ vụ quan trọng. Cấp thứ ba được gọi là Lãnh thần (Principatus) thống lãnh điều khiển các dân tộc. Cấp thứ bốn mang danh là Quyền thần (Potestates) giao tranh với ma quỷ. Cấp thứ năm được gọi là Dũng lực (Virtutes) bởi dũng cảm thi hành những việc diệu kỳ. Cấp sáu mang danh là Quản thần (Dominationes) quản trị vũ trụ. Ba cấp cuối cùng là: thứ bảy, các Bệ thần (Throni) nổi về trí hiểu; thứ tám, các Sêraphim nổi bật về sốt mến; thứ chín, các Kêrubim rạng rỡ ánh sáng bởi vì sát với toà Chúa.
Dựa vào đâu mà ông Điônisiô lấy tên đặt cho các đẳng trật thiên thần?
Hai cấp ở dưới cùng (thiên thần và tổng thiên thần) thì dễ hiểu rồi. Hai cấp cao nhất (Sêraphim và Kêrubim) thì dựa theo Kinh thánh như sẽ nói sau. Còn danh xưng của 5 cấp độ còn lại thì lấy ở các thư của thánh Phaolô gửi Colosê (1,16; 2,10.15) và Ephêsô (1,21; 3,10; 6,12). Duy có điều là trong các thư của thánh Phaolô, các danh từ ấy ám chỉ các quyền lực chống lại Thiên Chúa và đàn áp các tín hữu. Xem ra thánh Phaolô lấy các từ ngữ này từ văn chương khải huyền Do thái thời đó, ám chỉ các quyền lực thống trị vũ trụ. Thánh tông đồ đã du nhập các từ ngữ đó nhưng thêm rằng các quyền lực đã bị đức Kitô chế ngự rồi, vì thế các tín hữu không còn phải sợ hãi gì nữa! Còn ông Điônisiô thì rửa tội cho chúng, và biến thành các đẳng thiên thần, phụ tá cho Thiên Chúa trong việc điều hành vũ trụ. Nên biết là trước đây các kinh Tiền tụng trong Thánh lễ có nhắc đến các phẩm trật thiên thần trong khúc kết thúc; nhưng với Sách lễ sau công đồng Vaticanô II thì họ đã bị loại. Lý do có lẽ vì chức vụ của các vị không được rõ ràng cho lắm.
Thế còn các thiên thần Sêraphim và Kêrubim thì sao?
Theo mô hình của ông Điônisiô, các cấp thiên thần thuộc hạ đẳng và trung đẳng thì phải phụ trách việc quản trị vũ trụ; còn các cấp thượng đẳng thì phục vụ toà Chúa. Dù sao theo ông ta, càng gần toà Chúa bao nhiêu thì các thiên sứ càng nhận được nhiều ánh sáng và lửa mến bấy nhiêu. Vì thế mà ông đặt hai cấp Sêraphim và Kêrubim ở cấp 8 và cấp 9.
Sêraphim có nghĩa là gì?
Kinh thánh có một lần nói tới các Sêraphim ở sách ngôn sứ Isaia, chương 6. Nên biết là Sêraphim không phải là tên của một cá nhân mà là của một đoàn ngũ (ở số nhiều). Khi kể lại việc được Chúa kêu gọi làm ngôn sứ, ông Isaia thuật lại thị kiến được thấy trong đền thờ: Thiên Chúa ngự trên toà cao, với các sêraphim vây quanh, miệng không ngừng chúc tụng “Thánh, thánh, thánh”. Một vị đã mang một cuc than đỏ đến thanh luyện môi miệng ông để ông xứng đáng công bố lời Chúa. Từ quang cảnh này, người ta đã rút ra hai biểu tượng về Sêraphim. Biểu tượng thứ nhất, khá quen thuộc ở Việt Nam, áp dụng cho các ca đoàn, ca hát chúc tụng Chúa. Biểu tượng thứ hai là lòng sốt mến, dựa theo nguyên ngữ trong tiếng Do thái (serap) có nghĩa là đốt cháy, bừng cháy. Các tu sĩ dòng Phanxicô quen áp dụng nghĩa này cho thánh tổ phụ. Dù sao, cần nhấn mạnh rằng sêraphim ám chỉ một phẩm (một đẳng) thiên thần chứ không là một cá nhân. Vì thế nếu phụng vụ không dành lễ kính chỉ cũng chẳng lạ gì.
Còn các Kêrubim là ai?
Các Kêrubim được nhắc tới nhiều lần trong Kinh thánh. Danh xưng Kêrubim gốc từ tiếng babilon karibu (kẻ cầu nguyện, chuyển cầu, chúc tụng). Nguồn gốc của nó từ miền Cận đông, ám chỉ các thần linh nửa người nửa thú (đầu người, thân sư tử, chân bò, cánh đại bàng; như ông Edekiel tả lại ở chương 1). Các tác giả Kinh thánh đã du nhập từ ngữ này để ám chỉ các cận thần hầu bên nhan Chúa. Ta thấy một kêrubim xuất hiện ở đầu Sách Sáng thế (3,23) đứng gác ngoài vườn địa đàng, ngăn cản không cho nguyên tổ được đụng tới cây trường sinh. Tuy nhiên vai trò của các kêrubim trở nên quen thuộc với dân Do thái từ khi ông Môsê cho phép đúc 2 tượng kêrubim bằng vàng đặt ở đầu của hòm bia. Chính từ đó mà Thiên Chúa đã ban sấm ngôn (Xh 25,18-22; 37,7; Ds 7,89). Vì thế mà có thành ngữ “Thiên Chúa ngự trên các Kêrubim” (1Sam 4,4; 2 Sam 6,2; Is 37,16). Đến khi vua Salomon xây cất đền thờ tại Giêrusalem, ông cũng duy trì tập tục đó, tạc hai tượng Kêrubim bằng gỗ ôliu chạm vàng, đứng hai bên cạnh hòm bia, phủ cánh che rợp hòm bia (1V 6 23-28). Sang Tân ước, ta thấy sách Khải huyền (5,14; 19,4) lấy lại hình ảnh các Kêrubim, và trao cho trách vụ ca hát chúc tụng Thiên Chúa. Họ chiêm ngưỡng nhan Chúa.
Tóm lại, đang khi mà nhiều dân miền Cận đông tôn kính các Kêrubim như là thần linh tối cao, thì Kinh thánh đã du nhập hình ảnh Kêrubim, và đồng thời đã biến đổi chúng, không coi đó là thần linh tối cao mà chỉ là cận thần của Thiên Chúa. Thiên Chúa được hình dung như hoàng đế ngự trong cung điện, với triều thần hầu cận. Đó là nói trong Cựu ước. Còn các tác giả tu đức Kitô giáo, khi chú giải các đẳng trật thiên thần dựa theo mô hình của ông Điônisiô, thì nhấn mạnh rằng thì càng tiến trên thánh thiện, càng gần gũi với Thiên Chúa, thì con người càng được tăng thêm lửa sốt mến (Sêraphim) và sự hiểu biết về Ngài (Kêrubim). Nên biết là các hoạ sĩ vẽ các Sêraphim mặc áo đỏ (tượng trưng cho lửa sốt mến), còn các Kêrubim mặc áo xanh dương (tượng trưng của trời cao).
(Giuse Phan Tấn Thành, OP)
Ở Trung Quốc, một mục sư giúp người tị nạn Bắc Hàn bị ám sát chết
Ngày 30 tháng 4 vừa qua, xác của mục sư người Trung Quốc gốc Triều Tiên Han Chung-Ryeol, 49 tuổi bị tìm thấy chết ở gần Nhà thờ do mục sư xây ở giáp biên giới Bắc Hàn. Báo chí Nam Hàn tố cáo các viên chức của chế độ Bình Nhưỡng là thủ phạm.
Ngày 16 tháng 5-2016, hãng tin Giáo hội Á Châu loan tin, thi thể của mục sư Han Chung-Ryeol được tìm thấy ở vùng núi Changbai, một vùng gần biên giới Trung Quốc-Bắc Hàn.
Báo chí Nam Hàn quy trách nhiệm cho Bắc Hàn chủ mưu vì có sự hiện diện của ba viên chức Bắc Hàn tại nơi này và sau đó họ qua biên giới ngay. Changbai chỉ cách thành phố Bắc Hàn Hyesan vài trăm mét. Báo chí Bắc Hàn, do nhà nước kiểm soát, xác nhận mục sư bị ám sát, nhưng họ đổ lỗi cho Nam Hàn.
Các người rửa tội ở nhà thờ bị bắn chết
“Nhiều Giáo hội ở Trung Quốc cố gắng rao giảng phúc âm ở Bắc Hàn, một linh mục người Pháp ở Nam Hàn đã gặp mục sư Han ở Trung Quốc kể cho hãng tin Giáo hội Á Châu biết như trên. Mục sư Han biết mình bị đe dọa. Cách đây một tháng, mục sư đã rửa tội cho ba tín hữu Bắc Hàn. Cả ba đều bị bắn chết. Đó là lời cảnh cáo cuối cùng cho mục sư Han. có thể là quá trễ. Và cũng có thể mục sư không bận tâm. Mục sư nghĩ mình sẽ bị bắt cóc giống như nhiều người khác trước đó, nhưng chắc chắn mục sư không nghĩ mình sẽ bị giết.”
Vài hiệp hội cho rằng mục sư Han có thể liên hệ đến vụ đào thoát của 13 nhân viên một tiệm ăn Bắc Hàn ở Trung Quốc ngày 8 tháng 4 vừa qua. 13 người tị nạn này đến Nam Hàn ngày 13 tháng 4. Việc trốn đi này làm Bình Nhưỡng tức giận và đã đánh trả lại bằng tuyên truyền trên truyền hình: các gia đình của những người tị nạn lên đài truyền hình Bắc Hàn kêu gọi người thân của họ quay về, rằng họ đã bị lừa.
Ở biên giới Trung Quốc và Bắc Hàn, các tín hữu Tin Lành hoạt động rất mạnh để giúp người tị nạn. Linh mục công giáo người Pháp giải thích, “họ tự do hơn vì họ không có phẩm trật. Họ kêu gọi gây quỹ và tín hữu trả lời rất nhanh và cho rất nhiều.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Tại sao các thiên thần có cánh?
Hồi đầu tháng này, phụng vụ kính lễ các thánh thiên thần bản mệnh. Các hoạ sĩ thường vẽ các thiên thần mặc áo trắng với đôi cánh. Tại sao các thiên thần lại mang cánh?
Chúng ta sẽ lần lượt đi từng bước một trong việc tìm hiểu ý nghĩa đôi cánh của các thiên thần, từ biểu tượng tự nhiên, sang nguồn gốc lịch sử và sau cùng là ý nghĩa thần học. Trên bình diện tự nhiên, đôi cánh chim biểu thị cho sự lanh lẹ. Chúng ta có thể thấy nhiều hãng hàng không lấy cánh chim làm biểu tượng, và cách riêng là các phi công đều đeo huy hiệu đôi cánh ở trên ngực, ra như chứng tỏ rằng họ có khả năng bay bổng như chim. Đó là biểu tượng tự nhiên. Bây giờ chúng ta cần phải đi lên một cấp nữa: tại sao lại gắn đôi cánh cho các thiên thần? Câu trả lời đơn giản hơn cả là tại vì muốn mô tả bản tính của các vị là nhanh nhẹn. Nhưng mà nhanh nhẹn làm cái gì? Thi đua với ai? Đây là câu hỏi mà các sử gia đặt ra.
Có lẽ thi đua với gió. Các thiên thần vọt nhanh hơn gió, có phải như vậy không?
Có lẽ đúng một phần, nhưng đó là xét theo ý nghĩa thần học. Các sử gia muốn biết từ hồi nào các hoạ sĩ đã gắn đôi cánh cho các thiên thần, và vì lý do gì? Cho đến nay, người ta cho rằng nguồn gốc của nó không phải là Kinh thánh, nhưng là các tôn giáo ở vùng Cận đông, nơi mà xuất hiện những vị thần linh dưới hình thù của một người hay thậm chí một con thú có mang cánh. Đôi cánh chỉ sự lanh lẹ, như chớp như gió. Tuy nhiên, Kitô giáo du nhập các hình ảnh đó hơi muộn. Chị nên biết là Do thái giáo tuyệt đối cấm việc hình dung Thiên Chúa bằng hình tượng. Lúc đầu Kitô giáo cũng tiếp nhận truyền thống đó. Dần dần, các Kitô hữu bắt đầu vẽ hình của đức Kitô, Thiên Chúa nhập thể, với những biểu tượng của vị mục tử. Rồi càng ngày nền mỹ thuật Kitô giáo phát triển với những bức chân dung của Đức Kitô, đức Maria, các thánh. Việc hoạ chân dung của các vị không khó, bởi vì họ cũng là con người như chúng ta. Chỉ cần thêm những nét biểu tượng các nhân đức trổi vượt nhờ cách tô điểm các mầu. Nhưng làm thế nào mà vẽ các thiên thần, vốn thuộc vào loài thiêng liêng, vô hình vô tượng? Các hoạ sĩ chỉ còn cách là dùng các khuôn mẫu đã có từ các tôn giáo hay các nền văn hóa đương thời. Theo các sử gia, khuôn mẫu gây ảnh hưởng trực tiếp đến lối biểu tượng các thiên thần là nữ thần chiến thắng Victoria của dân Rôma, được kính ngay tại trụ sở của Thượng viện đế quốc. Vị thần này mang áo dài trắng, với đôi cánh chim, và cầm triều thiên.
Như vậy, các Kitô hữu muốn nói lên rằng các thiên thần là những người chiến thắng ma quỷ, phải không?
Có lẽ đó không phải là ý nghĩa nguyên thủy. Lúc đầu, ý nghĩa của đôi cánh chỉ muốn nói lên sự nhanh nhẹn. Sự nhanh nhẹn ở đây không nên hiểu theo nghĩa vật lý (chạy đua xem ai đạt vận tốc cao hơn), nhưng theo nghĩa tinh thần: mau mắn trong việc thi hành ý định của Thiên Chúa. Chị nên nhớ rằng trong nguyên gốc tiếng Do thái và Hy-lạp của Kinh thánh, các thiên thần là những sứ giả của Thiên Chúa. Vì thế, sự mau lẹ được hiểu là họ chấp hành sứ mạng ngay tức khắc, không chần chừ, như chúng ta đọc thấy trong thánh vịnh 103, câu 20: “Chúc tụng Chúa đi, hỡi muôn vì thiên sứ, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện Lời Người, luôn sẵn sàng phụng lệnh”.
Như thế cũng có thể ví các thiên thần bay lẹ như gió chứ gì?
Sự so sánh này khá tự nhiên. Tuy vậy, trong Kinh thánh Cựu ước, khi so sánh các thiên sứ với gió, thì có lẽ người ta không muốn nói tới sự nhanh nhẹn, cho bằng sự nhẹ nhàng. Trong tư tưởng cổ điển, gió và không khí tượng trưng cho thế giới thiêng liêng, đối lại với thế giới chất thể. Sở dĩ các thiên sứ nhanh nhẹn chu toàn sứ mạng một phần cũng tại các ngài không bị cản trở bởi vật chất. Thiết tưởng đây là điều mà vịnh gia muốn nói ở thánh vịnh 104, câu 3-4: “Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió. Sứ giả ngài: làn gío bốn phương, nô bộc Chúa, lửa hồng muôn ngọn”. Còn Phúc âm nhất lãm, khi tả quang cảnh của ngày chung thẩm thì nói đến việc các thiên sứ được sai đi để quy tụ muôn dân từ “bốn gió”, nghĩa là 4 phương trời (Mc 13,26-27; Mt 24,30-31).
Lúc nãy cha nói rằng khi du nhập biểu tượng của nữ thần Chiến thắng của Rôma, các Kitô hữu chỉ chú trọng đến ý nghĩa nhanh nhẹn của đôi cánh, chứ không lấy ý nghĩa chiến thắng. Nhưng mà có nhiều bức tranh vẫn vẽ thiên thần Micae chiến thắng quỷ dữ. Vậy là cũng có tư tưởng chiến thắng nữa đấy chứ?
Tôi chỉ ghi nhận ý kiến của vài nhà sử học mà thôi. Theo họ, khi du nhập biểu tượng thần chiến thắng, lúc đầu sự chú ý được dành cho đôi cánh, tượng trưng cho sự nhanh nhẹn nhẹ nhàng; về sau mới thêm tư tưởng chiến thắng. Ý nghĩa này được áp dụng cách riêng cho thiên sứ Micae, lãnh đạo các thiên sứ trong cuộc giao tranh với Satan, như chúng ta có thể đọc thấy ở sách Khải huyền chương 12, câu 7-9. Tuy nhiên, ý nghĩa chiến thắng không phải chỉ dành cho thiên sứ Micae, mà còn cho các Kitô hữu nói chung. Nhiều hoạ sĩ vẽ thiên thần hộ tống linh hồn của người lành về thiên quốc, tay cầm triều thiên đội lên đầu kẻ đã thắng tội lỗi và các chước cám dỗ.
Nếu con không lầm, thiên sứ Micae là đàn ông. Thế sao các bức tranh lại vẽ thiên sứ dưới hình thiếu nữ?
Nên biết là phái tính nam nữ chỉ áp dụng cho các loài có thể xác, chứ không áp dụng cho loài thiêng liêng. Vì vậy mà không thể nói được các thiên thần thuộc phái nam hay phái nữ. Bên Âu châu, việc hình dung phái tính chịu ảnh hưởng không nhỏ của từ ngữ, giống đực hay giống cái. Thí dụ như Hội thánh được ví như là mẹ, và hiền thê, bởi vì từ Ecclesia là giống cái trong tiếng Hy-lạp và La-tinh. Vì thế không lạ gì mà “tự do, công lý, chiến thắng” được hình dung như là nữ thần, bởi vì trong tiếng La-tinh và tiếng Pháp, các từ đó ở giống cái (Libertas, Justitia, Victoria). Còn từ “thiên thần” (angelus) là giống đực cho nên được hình dung là nam nhi là phải rồi. Trong Kinh thánh, ta thấy có những đoạn mô tả các thiên thần xuất hiện dưới hình của nam nhi, thí dụ như ở sách Sáng thế (chương 18, khi hiện ra với ông Abraham), sách Tôbia, về thiên thần Raphael, và trong Phúc âm nhất lãm khi nói về các thiên sứ hiện ra dưới hình một thanh niên, để báo tin Chúa Phục sinh cho các bà đi ra viếng mồ (Mc 16,5). Dựa theo các bản văn Kinh thánh, trong các thế kỷ đầu tiên, các bức hoạ vẽ các thiên thần theo hình nam nhi, đặc biệt là các thiên thần Micael, Raphael, Gabriel. Mãi tới thời cận đại người ta mới vẽ các thiên thần dưới hình thiếu nữ.
Tại sao vậy?
Có lẽ vì muốn tăng thêm phần duyên dáng xinh đẹp cho các ngài. Vả chăng, tuy các bức tranh cổ thời hình dung các thiên thần dưới hình dạng nam nhi, nhưng ta thấy các ngài cũng để tóc quăn và dài, má hồng môi thắm. Thật khó mà phân biệt được nam hay là nữ giới.
Và có lẽ y phục của các ngài cũng khó mà phân biệt được thuộc phái nào, phải không?
Thực ra trong xã hội cổ thời, y phục giữa nam giới và nữ giới không có gì khác biệt cho lắm. Trước đây, tại Việt Nam, các ông cũng để tóc dài búi tó, và mặc áo dài như các bà. Bên Tây phương, cũng tương tự như vậy. Vào thời cổ, các ông mặc áo thụng, mà vết tích còn duy trì nơi y phục của các linh mục và tu sĩ. Điều đáng chúng ta lưu ý là các hoạ sĩ đã quan niệm thế nào về hình dáng mà màu sắc dành cho y phục của các thiên thần. Cách chung, các vị mặc y phục màu trắng. Đây là lối trình bày dựa theo Kinh thánh, thí dụ khi mô tả các thiên sứ báo tin Chúa Kitô phục sinh (Mt 28,3): màu trắng không những chỉ tượng trưng cho sự thanh sạch nhưng còn tượng trưng cho sự sáng ngời của thiên giới. Ngoài căn bản lấy từ Kinh thánh, các hoạ sĩ cổ thời còn muốn khóac cho các thiên thần nhiều ý nghĩa khác. Các thiên thần mặc áo trắng toát như các thẩm phán và nghị sĩ của Rôma, bởi vì các ngài thuộc hàng chức sắc của triều đình thiên quốc. Về sau, các thiên thần cũng được khóac phẩm phục tư tế, để nói lên vai trò của các thiên thần là tiến dâng hy lễ chúc tụng trước toà Chúa.
Nhưng mà cũng có những bức hoạ vẽ y phục của thiên thần với đủ màu xanh đỏ đấy chứ?
Đúng vậy. Dĩ nhiên mỗi hoạ sĩ có những quan điểm riêng của mình khi nhuộm màu áo của các thiên thần. Tuy nhiên, theo các sử gia, các hoạ sĩ bắt đầu tô màu cho các thiên thần từ khi xuất bản tác phẩm “Phẩm trật thiên quốc” (De coelesti Hierarchia) của ông Đionixiô, vào khoảng thế kỷ V. Theo ông, trên thiên quốc, các thiên thần cũng được phân chia thành các đẳng trật (ông ta nói tới 9 đẳng) cao thấp khác biệt. Vì thế các hoạ sĩ muốn tô màu cho y phục của các thiên thần, nhằm phân biệt các đẳng cấp ấy. Tưởng cũng nên biết là vào thời cổ, người ta rất nể ông Điônixiô, vì tưởng lầm rằng ông ta là đồ đệ của thánh Phaolô, được sách Tông đồ công vụ nhắc đến ở chương 17 câu 34. Tác phẩm của ông được coi như mang nguồn gốc từ các thánh tông đồ. Nhưng mà, như đã nói, khoa sử học hiện đại cho rằng tác giả sống vào thế kỷ V, chứ không phải là đồ đệ của thánh Phaolô. Vì thế ông được đặt tên là Điônixiô giả (Pseudo Dionysius). Các hoạ sĩ bên Đông phương thường cho thiên thần Sêraphim mặc áo màu đỏ, còn thiên thần Kêrubim mặc áo màu xanh dương; số cánh cũng tăng lên 4 và 6. Sang thời Trung cổ, các thiên thần được gán cho nhiều chức vụ khác nhau, vì thế mà y phục cũng trở nên đa dạng: có vị lo việc coi sóc nhân gian, có vị lo chầu trước toà Chúa; có vị lo chiến đấu chống ma qủy, có vị phụ tá trong việc phán xét. Từ đó ta thấy có những thiên thần cầm cân, cầm giáo, hay là gảy đàn múa hát. Và bên cạnh các thiên thần tráng niên còn có các thiên thần tí hon, mình trần chỉ có thêm đôi cánh.
(Giuse Phan Tấn Thành, OP)
Chúa Giêsu có khi nào cười không?
Trong Phúc âm chúng ta đọc thấy nhiều lần Chúa Giêsu khóc, thí dụ như khi đứng trước mồ của ông bạn Ladarô của mình, hay là Ngài khóc thương Giêrusalem khi nghĩ đến tới số phận tang thương sẽ ập xuống thành đó. Phúc âm có khi nào nói tới Chúa Giêsu cười không?
Hồi mới vào chủng viện, tôi cũng có đặt câu hỏi như vậy. Và một giáo sư triết học đã giúp tôi tìm câu trả lời qua sự suy diễn của tam đoạn luận như sau. Cái cười là một đặc trưng của con người. Thế mà Chúa Giêsu là con người. Cho nên Ngài phải biết cười. Cần thêm rằng vào thời đó, Kinh thánh chưa phải là quyển sách gối đầu giường như là từ hồi công đồng Vaticanô II trở về sau. Dĩ nhiên, ngày nay, chúng ta không thể dùng cái tam đoạn luận như vậy nữa đẻ mà trả lời cho câu hỏi: “có bao giờ Chúa Giêsu cười hay không?”; nhưng chúng ta phải khảo sát trong chính bản văn Thánh kinh. Tuy nhiên, thiết tưởng trước khi mở Tân ước ra, chúng ta nên dừng lại chút xíu để tìm hiểu ý nghĩa của cái cười. Thực vậy, có cái cười chế nhạo khinh bỉ; chúng ta sẽ bực mình khi gặp phải cái cười đó. Tục ngữ Việt Nam đã khuyên: “cười người chớ khá cười lâu! Cười người hôm trước, hôm sau người cười”. Có cái cười vô duyên: hay cũng hì dở cũng hì. Trong Kinh thánh, tác giả của sách Giảng viên (2,2; 3,4) đã nhắc nhở rằng cười phải đúng lúc thôi, kẻo mà thành rởm. Chúng ta cũng chẳng ưa thích cái cười đó! Cái cười mà chúng ta muốn thấy là cái cười tươi vui, biểu lộ tâm hồn thanh thản hồn nhiên, và ra như muốn mời mọc ta cũng chia sẻ cái vui của họ nữa. Có lẽ chúng ta muốn tìm thấy cái cười này trên môi Chúa Giêsu, chứ không phải là cái thứ cười thuộc loại châm biếm chế nhạo.
Có phải Chúa cấm cười chế nhạo người khác không?
Xem ra ở trong Phúc âm theo thánh Luca (6,25) có lời khiển trách khá nặng như thế này: “khốn cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than!” Thực ra những lời cảnh cáo những ai cười nhạo kẻ tàn tật, cô thân không thiếu trong các sách Cựu ước, đặc biệt là trong các sách Khôn ngoan. Thí dụ: sách Huấn ca 7,11: “đừng cười kẻ đang bị âu sầu; hãy nhớ rằng có Đấng nhắc lên hạ xuống”; sách Châm ngôn 17,5: “Kẻ cười nhạo người nghèo hèn nhục mạ Đấng tạo ra nó, kẻ diễu cợt người hoạn nạn sẽ chẳng thoát khỏi hoạn nạn”. Dưới khía cạnh này thì quả là Chúa cấm cười.
Nhưng có lúc Chúa cho phép cười, thí dụ như khi Chúa hứa rằng: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6,21)
Có hai ý kiến giữa các nhà chú giải Kinh thánh về ý nghĩa của cái cười đó. Một số người cho rằng đó là cái cười đắc thắng của người lành hả hê khi thấy quân thù phải rút lui nhục nhã. Trong các thánh vịnh, ta đã thấy tư tưởng đó rồi. Thí dụ trong thánh vịnh 35 (câu 15-21), một người công chính gặp hoạn nạn đã đến kể lể với Chúa vì bị quân thù nhục mạ nhạo báng mình thay vì tỏ thông cảm; nhưng thánh vịnh 58,11 lại nói rằng: “người công chính sẽ vui mừng thấy Chúa trả oán; họ sẽ rửa chân trong máu ác nhân”. Hình ảnh đó xem ra tởm quá! Thánh vịnh 52, 8-9 có vẻ thanh nhã hơn: người công chính cười khi thấy những hạnh phúc giả dối của đám ngu xuẩn (tựa như tiền bạc, quyền hành) đã tan tành ra mây khói hết. Thậm chí thánh vịnh 2,4 nói rằng Thiên Chúa cũng bật cười khi thấy bọn ngu xuẩn muốn nổi loạn chống nhà trời! Tuy nhiên, một ý kiến khác cho rằng ở đây Chúa Giêsu không có ý nói tới cái cười khoái chí vì được trả đũa, nhưng chỉ là cái cười bộc lộ niềm vui thanh tao và bền bỉ, không bao giờ sợ mất nữa. Cái cười vì được an ủi, được một bàn tay êm ái lau khô nước mắt. Cái cười diễn tả niềm vui và hạnh phúc mà Chúa hứa cho những nghèo đói: họ được hưởng chính Chúa, cội nguồn hạnh phúc.
Nãy giờ cha đi vòng quanh giáo đầu giáo đuôi nhưng mà chưa chịu đi vào đề: Phúc âm có bao giờ nói Chúa Giêsu cười không?
Tôi đã cố gắng lục lọi tìm tòi qua máy vi tính, nhưng không thấy đoạn văn nào trong Phúc âm nói tới Chúa Giêsu cười. Tác giả của lá thư gửi người Do thái đã viết rằng: Chúa Giêsu đã trở nên hoàn toàn giống như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (4,25). Thế rồi khi muốn nêu bật điều kiện con người của Chúa Giêsu, tác giả nhắc tới sự kiện là “khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khấn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (5,7). Như vậy, tác giả nhận xét Chúa Giêsu đã tỏ ra tính con người khi khóc lóc chứ không phải là lúc cười! Thực ra cũng nên biết là tác giả viết thư này cho một cộng đoàn tín hữu đang bị bách hại để nâng đỡ lòng tin của họ, vì thế không lạ gì mà tác giả không nói tới chuyện Chúa cười. – Tuy nhiên, mặc dù Phúc âm không có nói tới việc Chúa cười, nhưng có những đoạn văn cho phép chúng ta tưởng tượng được khuôn mặt tươi cười của Chúa. Thực vậy, Phúc âm không phải chỉ nói tới việc Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Cây dầu hay phải chịu khổ hình trên thập giá, nhưng biết bao nhiêu lần còn tới tới việc Chúa đem Tin vui đến cho đời, ngài loan báo tin vui của Thiên Chúa là cha chăm sóc hết nọi người, cha vui mừng khi thấy đứa con lạc đường trở lại. Chúa Giêsu cũng đã mang niềm vui cho bao nhiêu người khi chữa lành bệnh tật cho họ, hoặc đem lại niềm vui cho bao nhiêu gia đình khi thấy thân nhân của mình được khỏi bệnh, được sống lại. Chúng ta có thể áp dụng ở đây một lối nói đã gặp thấy ở trong Cựu ước: khi nói rằng Chúa ban ơn cho ai thì người ta nói rằng “Chúa cười với người ấy”. Thực vậy, xưa nay, chúng ta thường mang ấn tượng là trong Cựu ước, Thiên Chúa hiện ra dưới cảnh uy nghi rực rỡ, tựa như cảnh trên núi Sinai (sách Xuất hành chương 19) hay là trong đền thờ mà ngôn sứ Isaia và Edekiel thuật lại! Nhưng mà sách Sáng thế có đoạn nói tới việc Chúa hiện ra và cười với bà Sara. Lúc đầu, khi nghe báo tin rằng mình sẽ có con, thì cả ông Abraham và bà Sara đều cười bởi vì tưởng Chúa nói giỡn (St 17,16; 18,12). Đến khi sinh được đứa con rồi, thì bà Sara lại nói rằng Chúa đã cười với mình, nghĩa là đã an ủi mình, đã mang lại niềm vui cho mình. Và đứa con được đặt tên là Isaac có nghĩa là “Chúa đã cười với tôi” (St 21,3-6). Như vậy, nói rằng Chúa cười với ai thì có nghĩa là Chúa ban ơn cho người đó. Có lẽ vì vậy mà trong dân Israel, người ta đã cầu chúc cho nhau: “Nguyện xin Thiên Chúa tỏa xuống trên bạn ánh tôn nhan Ngài” (Sách Dân số 6,25; Tv 67,2; 4,7). Dĩ nhiên ở đây ta không hiểu là Chúa phóng tỏa sấm chớp lên người đó, nhưng mà Người tỏ nụ cười duyên với họ, ban cho họ dồi dào phúc lộc. Thế rồi, thánh Luca còn nói tới việc Chúa Giêsu hoan hỉ trong Thánh thần khi dâng lời cảm tạ Chúa Cha đã mặc khải những bí nhiệm nước trời cho những bé nhỏ, đang khi lại giấu ẩn những bậc hiền triết (10,21). Đây cũng là một kiểu nói nữa đã thấy trong Cựu ước. Khi muốn biểu lộ niềm vui sướng, người ta nói rằng “tôi hớn hở nhảy mừng”. Đừng kể rất nhiều thánh vịnh dùng lối nói này, ta có thể trưng dẫn chính Mẹ Maria trong bài ca Magnificat: “linh hồn ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ của tôi”. Chị hãy tưởng tượng xem khuôn mặt của Mẹ khi thốt lên những lời đó chứ? Phúc âm cũng nói tới việc Chúa Giêsu bị một nhóm nhi đồng tới quấn quít lấy, Ngài đùa giỡn với chúng. Điều đó đã khiến các môn đệ cau mày, vì xem ra Chúa chơi trò trẻ con, thiếu tư cách đạo mạo! Thế nhưng Chúa lại bênh vực các em bé ấy: “Ai không trở nên giống như các em bé ấy thì sẽ không được vào Nước trời”. Chị thử tưởng tượng nét mặt của Chúa Giêsu lúc đó, và cũng đừng nên quên khuôn mặt của các tông đồ đứng bên cạnh. Nói thế không có nghĩa là khuôn mặt các tông đồ lúc nào cũng đằng đằng sát khí đâu. Thánh Luca (10,17) thuật lại rằng sau khi đi giảng về, các môn đệ tới khoe với Chúa vì họ thấy từng đàn ma quỷ sa xuống như sung rụng. Chúa cũng cười với họ, nhưng mà Ngài thêm rằng: “Các con đừng chỉ vui bởi vì thấy quỷ sợ tụi con; hãy vui hơn nữa vì tên các con đã được viết trên trời” (Lc 10,20). Hơn thế nữa, có những đoạn văn xem ra không những là Chúa mỉm cười, mà ra như Ngài muốn chọc cho người khác cũng cười theo.
Có lúc nào Chúa chọc cho người ta cười?
Nhiều đoạn lắm. Chúng ta hình dung cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô về sự tái sinh. Ông hỏi Chúa: Làm thế nào mà tôi có thể chui vào bụng mẹ để sinh lại được? Chúa tủm tỉm trả lời: “Này, cụ là thầy giáo trong dân Israel, mà lại hỏi câu ngây ngô như vậy hả?” Cũng vậy, khi ông Phêrô hỏi ngài: “Con phải tha thứ bao nhiêu lần cho người xúc phạm đến con? Tới bảy lần ư?”. Chúa Giêsu ngạo ông ta: “Đâu có phải bảy lần; bảy mười lần bảy chứ!” Cũng lại ông thánh Phêrô, khi đòi đi trên mặt nước để tới với Chúa, và mới được có vài bước thì sợ quá té cái rụp; Chúa trêu ông: “Sao mà yếu tin quá vậy?”. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của Chúa khi đi vào làng kia, thấy ông Dakêu đang trèo lên cây; Ngài ngẩn lên: “Này bác ơi, xuống đi; tôi định tới thăm nhà bác đây!”. Tóm lại, tuy rằng chúng ta không thấy trong Phúc âm có đoạn nào nói tới Chúa Giêsu cười, nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng lúc nào sắc mặt của Ngài cũng hằm hằm hay là nhăn nhó. Không, chúng ta có cơ sở để nói rằng 99 phần trăm những lần gặp Ngài, ta thấy nét mặt của Ngài tươi vui, bởi vì Ngài sống trong tình yêu của Chúa và muốn thông đạt cho ta tình yêu đó.
(Giuse Phan Tấn Thành, OP)
Nỗi hổ thẹn của một nền văn minh
Do tính chất đặc thù của công việc nên trong vòng hơn 2 năm, kể từ khi ra trường tôi có cơ hội và may mắn tiếp xúc được rất nhiều con người thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Khi nhìn lại dòng thời gian đã qua, tôi gằn mình lại để sự giận dữ không biến thành những bài viết đầy cực đoan, ảnh hưởng đến những đứa em, đứa cháu, một lớp thế hệ tương lai của dải đất hình chữ S thân thương này.
Ở đây, trong khuôn khổ bài viết với những câu chuyện lộn xộn và vụn vặt, tôi không dám quy chụp những con người mà tôi vô tình có nhắc đến vào những cái tốt đẹp chung của xã hội nhưng tôi dám khẳng định với bạn rằng, chắc chắn bạn sẽ thấy bóng dáng của ai đó bạn đã từng gặp trong câu chuyện của tôi, đây không thể là số ít, đây không thể là tất cả câu chuyện mà tôi có thể kể ra và đâu đó sẽ xuất hiện hình bóng của chính bạn, tôi xin lỗi nhưng cho phép tôi nói thẳng, có lẽ chúng ta trong khoảnh khắc nào đó đều là một nỗi hổ thẹn không thể chối cãi.
Đúng giờ và sự nhẫn nại
Khi là một thằng sinh viên mới ra trường, tôi luôn tò mò và háo hức khám phá cuộc sống còn lạ lẫm xung quanh mình, liên tục là những cuộc hẹn gặp khách hàng, những con người, lắng nghe những câu chuyện và những chia sẻ từ họ là một điều hết sức thú vị. Tuy nhiên, qua những cuộc hẹn gặp đó, tôi dần nhận ra chúng ta đang quá dễ dãi với chính bản thân mình.
Tôi đã gặp rất nhiều những con người, họ đeo trên tay chiếc đồng hồ hàng hiệu, trong túi là chiếc smartphone sành điệu, và tất cả tôi nghĩ chỉ là những đồ vật trang trí tô điểm cho họ, bởi công dụng đơn giản nhất của chúng là để xem thời gian cũng không được dùng đến. Họ sẵn sàng đến muộn trong một cuộc hẹn và coi như nó là việc hết sức bình thường, họ trễ hẹn đến cả giờ đồng hồ với 1001 lý do được đưa ra cùng những cái nhoẻn cười xuề xoà, sự xấu hổ khi vừa làm một việc có lỗi lặn mất tăm trên khuôn mặt. Bởi vì họ coi đó như là một điều hết sức bình thường và lẽ tất yếu trong cuộc sống.
Đơn giản thôi, các bạn đã tự bao giờ cho phép mình mặc định có thể đến trễ trong các cuộc hẹn bạn bè mà không hề cảm nhận được sự xấu hổ? Nếu có thì bạn cũng chính là một trong những con người đang viết nên câu chuyện của nỗi hổ thẹn hôm nay.
Đúng giờ có lẽ là điều xa xỉ đối với một số người, nhưng trên hết nó thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau trong một xã hội mà chúng ta vẫn gọi là văn minh. Và tôi luôn nghĩ, đến một lúc nào đó, nhanh thôi, đời sẽ dạy lại họ thế nào là giá trị của 2 tiếng “thời gian”.
Ở một khía cạnh khác, giữa ngã tư đường, bạn hẳn bắt gặp tiếng còi inh ỏi một cách vội vã của những chiếc xe, kể cả khi đèn đỏ còn cả chục giây. Họ có thể lý giải cho hành động đó là họ đang vội vã đến một nơi nào đó, làm một cái gì đó cho đúng giờ, cho kịp cuộc hẹn. Tôi không quan tâm và không chấp nhận lời giải thích đó, bởi lẽ khi chúng ta không đủ nhẫn nại để chờ đợi vài chục giây đồng hồ tại nơi ngã tư đường thì chúng ta liệu có thể làm được gì to tát hơn thế ? Chúng ta không thể quản lý được quỹ thời gian của chính chúng ta mà lại hoàn toàn để nó chi phối cuộc sống thì đó đâu còn là cuộc sống của chúng ta. Tất cả đều chỉ là mớ nguỵ biện cho sự thiếu kỷ luật đến tàn tệ của một xã hội vô lối.
Cái tôi ích kỷ và nhỏ bé
Chúng ta nghĩ cái tôi của chúng ta là to lớn nhưng thực ra đấy lại chỉ là một cái tôi hoàn toàn đại chúng như bao cái tôi khác.
Tôi từng thấy cả nghìn con người chen chúc nhau, láo nháo, lộn xộn đứng giữa một con phố trung tâm Thủ đô chỉ để giành giật bằng được miếng sushi miễn phí tại một nhà hàng mới khai trương. Các bạn ăn thế có thấy ngon không? Miếng ăn ở đây có là miếng nhục? Khi các bạn sẵn sàng xô đẩy, giẫm đạp lên những người đồng loại của mình để đạt được mục đích, để được ngấu nghiến nhai trong mồm một thứ đồ ăn miễn phí, có thể món đồ đó thật ngon, nhưng cũng có thể nó được làm từ thực phẩm quá hạn. Nhưng nào có sao, bạn không quan tâm, đơn giản bởi nó miễn phí là bạn có thể nhét tất vào mồm, nhét đầy vào sự tham lam cùng cái tôi ích kỷ mà không cần nghĩ suy.
Các bạn nghĩ sao khi nghi án Coca-cola chuyển giá nhằm trốn thuế chúng ta đã rành rành trước mắt, những đồng thuế hoàn toàn có thể được sử dụng ngược lại để giúp đỡ chính chúng ta, những học bổng có giá trị cho bạn, những hỗ trợ trong nghề nghiệp của cha mẹ bạn, hay có xa lạ hơn chăng là những mái nhà, lớp học cho trẻ em nơi vùng cao? Bạn nghĩ sao khi tên bạn được in trên vỏ lon Coca-cola nào đó, chính nó được coi là cách không thể tốt hơn và là công cụ truyền thông hiệu quả cho một hãng kinh doanh nước ngọt thiếu đạo đức và trách nhiệm cộng đồng.
Rồi đến việc sẵn sàng rồng rắn xếp hàng dài cả tiếng đồng hồ dưới trời nắng chỉ để thưởng thức một ly cà phê Starbucks, hay để mua một suất McDonald’s. Họ cứ nghĩ mình thông minh và sành điệu nhưng có một sự thật không thể phủ nhận, họ đang bán rẻ cái tôi và sự tự trọng mà họ vốn coi là vĩ đại. Đó đơn giản chỉ là một cái tôi bầy đàn, một cái tôi đại chúng nhạt nhoà đang được hoà lẫn vào một thế giới ảo, và bị lợi dụng một cách không thương tiếc trong cái xã hội đầy toan tính và vụ lợi.
Có chăng cái tôi của họ chỉ được thể hiện khi đang đi trên đường họ vô tình chạm xe vào người khác, ngay lập tức là những câu chửi rủa bốc mùi xú uế, những cái nhìn sắc lạnh như dành cho kẻ thù và kết cục có thể sẽ là những trận chiến ngay giữa lòng đường tặng cho những người cùng màu da, tiếng nói. Có chăng cái tôi của họ chỉ được thể hiện nơi quán nhậu hoặc quán café, một bóng già khoặm đến xin bán gói tăm, hoặc một nhóc nhỏ lon ton xin đánh đôi giầy, họ trừng mắt, cái nhìn đầy vô cảm, họ hả hê được thể hiện cái tôi vĩ đại của mình trước mặt những bạn bè ngồi xung quanh.
Tâm linh và sự mù quáng
Tôi là người không hay đi chùa cũng như đến các khu vực tâm linh tuy nhiên tôi không thể phủ nhận nền văn hoá tâm linh là truyền thống ngàn đời nay của con cháu đất Việt. Nhưng tôi tự răn mình mỗi khi bước vào những chốn thanh tịnh đấy, đó là lúc tôi đi tìm lại những sự chậm rãi của cuộc sống vốn hối hả, bon chen, trước mỗi ban thờ hoặc một bát hương, tôi trầm mình vái lạy để cầu mong sự bình an cho bản thân và cho gia đình.
Tôi không có thói quen thắp hương hay nhét tiền đầy trên đĩa, dưới đĩa, trên bàn, dưới bàn, hòm công đức hay bất cứ những chỗ nào có thể nhét, như những con người kia. Tâm linh nào cho những khói hương được đốt nghi ngút đến cả bó, những đống vàng mã khói um cả một góc trời? Tâm linh nào cho những sự giành giật, xô đẩy đến lố bịch chốn đây, từ hội ấn đền Trần Nam Định, từ đền bà chúa Kho cho đến lễ hội Lim? Tâm linh nào khi xác những con vật bị phanh thây, phơi bầy xẻ thịt ngay vùng đất thiêng chốn này từ đền Cổ Loa, đến Chùa Hương?
Tôi vẫn nhớ có lần tôi đã khóc, dòng nước rỉ ra nơi khoé mắt lúc nào không hay, tôi khóc bất lực trước cảnh tượng diễn ra trước mắt trong một lần đến thăm Văn Miếu, những đống tiền lẻ vứt vương vãi đầy mặt đất, những bậc phụ huynh tranh nhau, hỷ hả cho những đứa nhỏ thi nhau đứa ngồi, đứa đứng trên lưng bia cụ rùa rồi thi nhau chụp ảnh.
Và đây, một sự lố lăng và mù quáng thật kinh tởm khi họ có một niềm tin là sờ đầu rùa Văn Miếu sẽ học hành đỗ đạt, các vị phụ huynh bắt những đứa con của mình phải sờ và chạm tay vào bằng được. Họ nào có biết chính họ đang dạy cho những đứa con của mình và nuôi dưỡng sự mù quáng cho chúng từ thủa ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Và cứ mỗi mùa thi đại học đến, bạn sẽ thấy thôi, cảnh sỹ tử nhung nhúc cố mọi cách chạm tay vào đầu rùa đâu còn là lạ.
Có thể con cháu chúng ta chưa thể chứng kiến được những điều này, nhưng hàng trăm năm sau, tôi tưởng tượng thấy được hình ảnh của những đứa trẻ với khuôn mặt ngơ ngác đến tội nghiệp trong khuôn viên Văn Miếu Quốc Tử Giám, hình ảnh đập vào mắt lũ trẻ lúc này là những cụ rùa thân hình to lớn cõng trên lưng nhưng cái bia tiến sỹ đã bạc màu thời gian, với cái đầu nhẵn bóng lúc đấy có thể chỉ còn to bằng quả táo tàu, mà có thể chúng sẽ không còn biết gọi tên con vật ấy là gì.
Khoe mẽ và lãng phí
Trước khi đi ăn họ chụp ảnh mặc đồ, khi đến nơi họ check-in nhà hàng, trước khi ăn họ chụp bàn thức ăn, ăn xong họ chụp sự no nê. Tất cả đều được đưa lên mạng xã hội facebook, tất cả đều là thể hiện đẳng cấp của họ.
Tôi từng làm cho bộ phận marketing của một chuỗi nhà hàng, tôi cũng từng được đi đến khá nhiều những nhà hàng, sự lãng phí của chính chúng ta được thấy rõ nhất tại những nơi như thế này. Kết thúc bữa ăn, thực khách đứng lên, họ vui vẻ ra về và trò chuyện cùng nhau sau buổi buffet của mình. Kể cũng đáng tiền vì đã trả tiền rồi nên ăn sao mà chẳng được, họ chụp ảnh, thoả thích trưng bày những đĩa thức ăn đầy ụ trên bàn cùng những nụ cười tươi rói, những bức ảnh long lanh nhanh chóng được chia sẻ lên facebook với những cái like và comment khiến chủ nhân của bức ảnh càng hả hê. Những đồ ăn không hết thì bỏ thôi, có nhằm nhò gì, miễn sao hình ảnh của họ phải thật đẹp.
Nhưng nếu lúc nãy một trong số những con người này đi ngang một cái bàn khác, một đôi nam nữ ngoại quốc đang ngồi, vừa ăn vừa nói chuyện, những món ăn trên đĩa của họ cái gì cũng chỉ có một, thậm chí người này lấy món này thì người kia không lấy, để cùng ăn thử cho đỡ phí…Và nếu họ thấy được người phục vụ đến dọn chén đĩa và thức ăn dư của họ đã ngẩn ngơ tiếc như thế nào khi nghiêng mình trút hết phần thức ăn đó vào thùng rác. Giữ lại thì không được mà bỏ đi thì thật đáng tiếc làm sao. Và nếu họ nhìn thấy ở ngay phía bên ngoài kia thôi, cách cánh cửa nhà hàng này không xa những đôi bàn tay đen đúa, nhầu nhĩ cùng cái nón lá rách tả tơi đang chìa ra cầu xin con người ban phát lòng thương hại để qua cơn đói khát… thì có lẽ chăng họ đã khác.
Thực phẩm, chúng ta đều biết nó không phải cái tự trên trời rơi xuống, chúng ta phải khó nhọc mới có được nó. Vậy mà… tôi đã nhìn thấy những đĩa thức ăn được lấy một cách vô tội vạ, thoả mãn lòng tham đến cực độ, những bàn buffet sau khi thực khách đứng lên để lại hàng đống, có món lấy rồi không đụng đũa. Và tại quầy thức ăn của nhà hàng, nhà bếp chưa làm xong kịp, một vài thực khách vẫn phải đứng chờ để lấy món mình ưa thích nhưng ở phía bên kia của gian bếp, món ăn đó đang được đợi để đổ đi.
Tình người và lòng trắc ẩn
Chiếc Mẹc đỏ bóng lộn vừa phóng vọt lên đột nhiên khựng lại, kính xe nhanh chóng được hạ xuống, một thanh niên với mái tóc chải chuốt gọn gàng ló đầu ra kéo theo mùi nước hoa thoang thoảng. Những từ ngữ chợ búa tuôn ra từ miệng anh được dội xối xả vào lưng bà cụ đi xe đạp phía trước. Bà dắt theo chiếc xe đạp đã cũ chậm chạp băng qua đường một cách đầy khó nhọc trong im lặng, bản nhạc nền cho khung cảnh đang diễn ra là tiếng còi inh ỏi liên hồi được anh thanh niên tấu lên một cách đầy sôi động và thúc giục. Ngồi bên cạnh anh, cô gái trẻ sau khi ném nhanh cái nhìn về phía trước lại tiếp tục cắm đầu vào chiếc điện thoại trên tay. Bà cụ qua đường, với theo sau cái bóng già cũ kỹ, tiếng chửi rủa nghe rõ mồn một phát ra từ bên trong chiếc xế hộp.
Cái quái quỷ gì đã và đang được nhồi nhét vào đầu của những thanh niên còn trẻ với vẻ ngoài lịch thiệp thế này? Có phải thế hệ ông bà, cha mẹ họ đã được sống trong sự an yên sung sướng trên mồ hôi và nước mắt của những kẻ khác để rồi sản sinh ra họ với tư cách mục ruỗng của ngày hôm nay? Không một chút tình người.
Sự cộng hưởng đến với cả một thế hệ phải chăng là bắt nguồn từ những trang báo lá cải đang tràn ngập thế giới mạng, hay là những tin cướp, hiếp, giết nhan nhản xuất hiện của các tờ báo chính thống luôn được đưa ra tức thì để câu view thay cho những bài viết có tính chiều sâu và giáo dục nhân cách con người? Truyền thông của đất nước này phải tự trách chính mình vì đã quá dễ dãi và chính nó đang giết đi tư tưởng và bản lĩnh cũng như lòng trắc ẩn của cả một thế hệ được sinh ra yên ấm trong nền hoà bình mà cha ông họ đã dùng máu và nước mắt để xây đắp lên.
Ta đang sống trong thời đại khi mà bạn hay tôi đôi lúc phải lặng yên một cách nhục nhã, bất lực trước sự vô cảm và thiếu đi lòng trắc ẩn của mỗi con người. Chúng ta vội vã chạy theo những đồng tiền và sự lố lăng, hào nhoáng bên ngoài mà chính nó đang vô hình giết chết những cảm xúc của chính chúng ta. Tôi tự hỏi sẽ đến khi nào chúng ta mới nhận ra được bản chất thực sự của thời đại này, thời đại nơi tất cả chúng ta đang sống trong một nền văn minh để rồi đôi khi tôi chợt nhận ra cái cuộc sống này thiếu thốn tình người hơn bao giờ hết, thủa đó chiến tranh, qua lời kể của mẹ tôi, thủa đó bom rơi đạn lạc, thủa đó thiếu thốn, nhưng tình người ấm áp không bao giờ là thiếu.
Và có lẽ cuối cùng rồi thì những sự hổ thẹn cũng không hề gì nếu chúng ta cứ tiếp tục mặc nhiên coi nó là một phần tất yếu của cuộc sống. Tất cả suy nghĩ lôi tôi đến với bài viết này đều xuất phát tình cờ trong một câu chuyện phiếm, câu nói của anh chàng đánh giầy cho tôi trong quán cafe nhỏ, cùng ánh mắt của anh với sự bất lực và thoáng buồn của tuổi trẻ đã qua: “Vật giá thì đắt đỏ, nhân phẩm thì rẻ mạt.”
Tôi chạnh lòng, một sự bế tắc. Và bởi có lẽ tôi chắc chắn không thể tiếp xúc được với nhiều những con người như anh, tôi mời anh ly cafe buổi xế chiều và lúc này chúng tôi bắt đầu câu chuyện với nhau, câu chuyện về những nỗi hổ thẹn của một nền văn minh. Nhưng dù câu chuyện có đi đến đâu, tôi và anh vẫn luôn tin con người thì ở đâu cũng đẹp, chỉ là ta vẫn chưa nhìn ra hoặc chưa chịu nhìn ra cái đẹp đó mà thôi.
Nguyễn Trần Chung
Luyện Ngục. Cuộc thanh tẩy cuối cùng.
Xin góp nhặt link dẫn có một vài tài liệu về vấn đề Đời Sau, Luyện Ngục, Linh Hồn, v.v… để qúi vị tham khảo.
Thân trọng,
Viet Respect Life
http://www.xuanha.net/gl-LUYENNGUC/0mucluc-giaolyluyennguc.htm
Các linh hồn Luyện ngục, mặc dù không có công trạng gì
đáng thưởng, nhưng họ có thể cầu nguyện rất đắc lực
cho chúng ta. Họ không thể bầu cử cho mình, nhưng
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, các linh hồn có thể van
Xin Chúa cho chúng ta rất nhiều ơn đặc biệt để giúp
chúng ta tránh khỏi tay quỷ, bệnh hoạn hoặc hiểm nguy
trong mọi vấn đề.
Thánh Anphongsô
Anh chị em khóc lóc kêu la thảm thiết trước
quan tài nào có ích chi, tốt hơn là nên đọc kinh cầu
nguyện và làm việc lành chỉ cho người quá cố.
Thánh Gioan Chrysotômô
Recent Comments