Archive | August 2014

12 Ðiều Mà Mọi Người Công Giáo Phải Trả Lời Ðược

images 3

Tự do ngôn luận là một điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất đắt cho nó: Khi dân chúng được quyền tự do muốn nói gì thì nói, họ đôi khi dùng sự tự do đó để nói những điều ngớ ngẩn.  Và đó là 12 điều mà chúng tôi sẽ bàn ở đây.

Có một ít điều được nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được nhắc đến, trong khi những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá chúng, chúng ta là người Công Giáo có nhiệm vụ phải trả lời.

  1. “Không có gì là chân lý tuyệt đối cả. Ðiều đúng cho bạn chưa chắc đã đúng cho tôi.”

    Người ta dùng lý luận này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nói và không có cách nào khác để chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là đúng cho tất cả mọi người, thì họ muốn tin gì thì tin, và không thể nói gì để làm họ đổi ý cả.

    Nhưng hãy nhìn lại câu nói “Không có gì là chân lý tuyệt đối cả” một lần nữa. Có phải chính câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác, nó áp dụng ít qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người — chính là điều mà những người theo tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng cách đưa ra lập luận của họ.  

    Một vấn đề khác với câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại thật sự tin điều đó. Nếu có ai nói với bạn, “Không có chân lý tuyệt đối nào cả,” và bạn thụi vào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng. Nhưng theo niềm tin của anh ta, anh ta phải nhận rằng đấm vào bụng ai có thể sai đối với anh, nhưng có thể đúng đối với bạn.

    Khi đó họ sẽ trở lại với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: “Bao lâu bạn không làm đau người khác, bạn tự do muốn làm gì và tin gì tùy ý.”  Nhưng đây chỉ là một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác). Ai nói là tôi không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà đến? 

    Nếu câu này được đưa ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối với người khác. “Ðừng làm hại” chính nó là một thỉnh cầu đối với một cái gì cao trọng hơn – một loại phẩm giá chung  của con người. Nhưng câu hỏi lại là phẩm giá từ đâu đến. 

Như bạn có thể thấy, càng đi sâu vào những câu hỏi này, thì bạn càng hiểu biết rằng quan niệm về lẽ phải và chân lý không phải tùy ý, nhưng dựa vào một vài chân lý cao quý và phổ quát ngoại tại — một chân lý được viết trong chính bản tính của chúng ta. Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn , nhưng không thể chối rằng không có chân lý đó. 

2. “Kitô giáo không hơn gì các tín ngưỡng khác. Tất cả mọi tôn giáo đều dẫn đến Thiên Chúa.”

Nếu bạn không nghe đến câu này vài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu. Ðáng buồn là những người nói lên điều này thương lại là Kitô hữu (ít ra trên danh nghĩa). 

Những trở ngại với quan điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra một chuỗi những lời xác nhận về Thiên Chúa và con người: Rằng chính Chúa Giêsu Nadareth là Thiên Chúa, và Người đã chết và sống lại — tất cả để chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những điều này. Cho nên, nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một chân lý sống còn — một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận. 

Chỉ điều này thôi đã làm cho Kitô giáo thành duy nhất. 

Nhưng nó không ngừng ở đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan.

“Thầy là đường, sự thật, và sự sống; không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua Thầy.” Trong Kitô giáo, chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Ðúng là tất cả các tôn giáo chứa đựng một phần chân lý — số lượng thay đổi tùy theo tôn giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theo và thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không? 

Nếu Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân lý này. 

3. “Cựu Ước và Tân Ước trái ngược nhau ở nhiều chỗ. Nếu một Thiên Chúa toàn năng linh hứng Thánh Kinh, thì Ngài đã không để cho có sai lỗi.”

Ðây là một luận điệu thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet (nhất là những websites vô thần và tự do tư tưởng). Một bài trên website của Vô Thần ghi rằng “Ðiều lạ thường về Thánh Kinh không phải vì tác giả là Thiên Chúa; chính là những mâu thuẫn được bịa đặt vô nghĩa mà người ta có thể tin là được Thiên Chúa thượng trí viết ra.” 

Những câu như thế thường được kèm theo một danh sách những câu “mâu thuẫn” trong Thánh Kinh.  Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn có ít sai lầm đơn giản. Thí dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau trong Thánh Kinh theo thể văn mà các sách đó được viết. Xét cho cùng, Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại văn tự… lịch sử, thần học, thơ phú, và khải huyền,vv…. Nếu chúng ta đọc các sách này cùng một cách cứng ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng ta sẽ bị bối rối kinh khủng. 

Và danh sách “các mâu thuẫn” trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí dụ lấy điều đầu tiên trong danh sách Vô Thần của Mỹ:

“Hãy nhớ ngày Sabát, và giữ nó cách thánh thiện.” Xuất Hành 20:8 

So với

“Người thì cho rằng ngày này trọng hơn ngày khác; người khác lại cho rằng ngày nào cũng như nhau. Vậy mỗi người phải xác tín trong thâm tâm mình.” Rom 14:5 

Người vô thần la lên: Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên không nhắc đến điều mà mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới, thì những đòi hỏi về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì thế việc những luật lệ trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân của Tân Ước là điều hoàn toàn hợp lý. 

Nếu nhà phê bình hiểu giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc phải một lỗi sơ đẳng như thế. 

Ðiều kế tiếp trong danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương tự:

“…trái đất mãi mãi trường tồn.”   

Giảng Viên 1:4
 
So với:

“…các nguyên tố vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ.” 2 Phr 3:10 

Vậy Cựu Ước cho rằng trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói rằng nó rồi sẽ bị hủy diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất dễ, lại theo sự hiểu biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra. 

Thí dụ Sách Giảng Viên so sánh cái nhìn thế tục và tôn giáo – và hẩu hết sách này viết theo quan niệm thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như, “Bánh được làm cho vui, và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi, và tiền bạc giải quyết được tất cả” (GV 10:19).

Tuy nhiên, ở cuối sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả “sự khôn ngoan” ông tặng và bảo chúng ta “Kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn Ngài; vì đó là tất cả nhiệm vụ của con người..” (12:13). 

Nếu một độc giả ngưng đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê bình gia Vô Thần Mỹ. Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế giới trường tồn bị gạt bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu thuẫn với điều được mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để trả lời tố cáo về sự khác biệt này) 

Những “mâu thuẫn” khác giữ Cựu và Tân Ước có thể được trả lời cách tương tự. Hầu như với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không để ý đến thể văn, và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý. 

Không một Kitô hữu biết suy nghĩ nào phải bối rối về những danh sách này. 

4. “Tôi không cần đến Nhà Thờ. Bao lâu tôi là một người tốt, chỉ có điều đó mới đáng kể.”

Luận điệu này dược dùng thường xuyên, và rất gian xảo. Khi một người nhận mình là “người tốt,” người đó thật sự ám chỉ rằng họ “không phải là một người xấu.” — người xấu là người sát nhân, hiếp dâm, và trộm cắp. Phần đông người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội này, và đó là tư tưởng: Chùng ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông qua. Ðiều đó không giống Ðức Kitô lắm, phải không? 

Nhưng bỏ qua trạng thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo đền Nhà Thờ hơn là chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa. Thánh Lễ là viên đá góc của đời sống đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở trọng tâm của nó: Bí Tích Thánh Thể. Ðó là nguồn mạch của tất cả đời sống cho người Công Giáo, là những người tin rằng bánh và rượu trở nên Mình và Máu thật của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ là biểu tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa hiện diện cách thể lý với chúng ta bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được bằng cầu nguyện. 

Chúa Giêsu phán, “Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn thịt Con Người và uống máu Người, các người không có sự sống trong các người; ai ăn thịt và uống máu Ta có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”  (Ga 6:53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chuá Giêsu và tin tường vào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dự Thánh Lễ. 

Hơn nữa, bí tích Thánh Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho những người ờ trong Hội Thánh. Là phần tử của Hội Thánh, nhiệm thể hữu hình của Ðức Kitô trên thế gian, đời sống chúng ta liên hệ mật thiết với đời sống của người khác trong Hội Thánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa thật quan trọng, nhưng chúng ta cũng có nhiệm vụ sống như những phần tử trung thành của nhiệm thể Ðức Kitô. Là “người tốt” mà thôi chưa đủ. 

5. “Bạn không cần phải xưng tội với một linh mục. Bạn có thể đến thẳng cùng Thiên Chúa.”

Như một cựu mục sư Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin Lành (họ hiểu về chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói một điều như thế… thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là thế, người ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra lý do để biện minh tại sao không làm thế.. 

Bí Tích Giải Tội đã có với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô:

“Chúa Giêsu lại bảo các ông, ‘Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.’ Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, ‘Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.’” (Ga 20:21-23) 

Nên ghi nhận rằng Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội.. Tất nhiên, họ không biết phải tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta phạm. 

Việc xưng tội cũng được chứng minh trong thư thánh Giacôbê:

Có ai trong anh em đau ốm? Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh, và hãy để họ cầu nguyện trên người ấy, xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa; Và lời cầu nguyện do đức tin sẽ cứu người bệnh; và Chúa sẽ nâng người ấy dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được chữa lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính có hiệu lực rất lớn lao. (Gia 5:14-16)

Ðiều đáng quan tâm là không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng ta là chỉ xưng tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến bằng cách xưng tội công khai. 

Và lý do thật dễ hiểu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không những mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là Hội Thánh (vì tất cả mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha). Cho nên khi chúng ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ – Thiên Chúa và Hội Thánh. 

Hãy nghĩ về xưng tội cach này. Thử tưởng tượng rằng bạn vào một tiệm và ăn cắp vài món hàng. Sau đó, bạn áy náy và hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn có thể cầu xin Thiên Chúa tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một phần tử khác liên hệ; bạn phải trả lại món hàng và đền bù cho hành động của bạn. 

Ðối với Hội Thánh cũng thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên Chúa và Hội Thánh, vì chúng ta có tội với cả hai. Và khi ngài công bố lời tha tội, thì sự tha thứ chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn. 

6. “Nếu Hội Thánh thật sự theo Chúa Giêsu, thì đã bán các nghệ thuật, tài sản, và các công trình kiến trúc lãng phí, mà cho người nghèo.”

Khi một người nghĩ đến Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc giàu sang, với nơi ở như cung điện cho Ðức Giáo Hoàng và các hòm đầy vàng cất ở các xó nhà, chưa kể đến các sưu tầm nghệ thuật và đồ cổ vô giá. Nhìn đến Vatican cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những điều họ nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trương và phí phạm. 

Nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Các dinh thự chính gọi là “Ðiện Vatican” không phải được xây làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra, khu vực gia cư tương đối nhỏ. Phần lớn điện Vatican được dùng vào việc nghệ thuật, khoa học, điều hành công việc Hội Thánh, và điều hành chung của điện. Có một số đông nhân viên của Hội Thánh và hành chánh sống trong điện Vatican cùng ÐTC, làm cho nó thành trụ sở chính của Hội Thánh. 

Còn về những sưu tầm nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới, Vatican coi đó như một “kho tàng không thể thay thế được,” nhưng không phải về diện tài chánh. ÐTC không làm chủ những tác phẩm nghệ thuật này, và nếu ngài muốn, ngài cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ được đặt dưới sự săn sóc của Toà Thánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi đến cho Hội Thánh, mà ngược lại, Tòa Thánh phải đầu tư một số tài nguyên không nhỏ để bảo tổn các sưu tầm này. 

Sự thật của vấn đề này là Tòa Thánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại sao lại giữ những nghệ phẩm này? Vì tin vào một trong các sứ mệnh của Hội Thánh là một động lực truyền bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời trung cổ cẩn thận chép lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai — nếu không thì những văn bản này không còn nữa — Hội Thánh tiếp tục bảo trì nghệ thuật để chúng không bị mai một với thời gian. Trong nền văn hóa sự chết ngày nay khi mà từ “văn minh” chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứ vụ truyền bá văn minh của Hội Thánh ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết. 

7. “Chống đối thực sự là điều tích cực, vì tất cả chúng ta phải có đầu óc cởi mở đối với những tư tưởng mới.”

Ngày nay có lẽ bạn đã nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trong vụ gương mù về lạm dụng tính dục trong Hội Thánh. Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề, trong đó có người đưa ra những tư tưởng ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ nữ, hay mở cửa cho đống tính luyến ái làm linh mục, v.v…). Nhiều người đổ tội cho Hội Thánh vì quá cứng rắn về đức tin và không muốn thử những điều mới. 

Sự thật là nhiều tư tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì là mới mẻ cả. Chúng đã được đề ra từ lâu, và Hội Thánh đã quan tâm đến chúng. Thực ra, Hội Thánh đã bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởng và quyết định rằng tư tưởng nào hợp với luật Thiên Chúa và tư tưởng nào không. Hội Thánh đã gạt ra hết lạc giáo này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo lý Ðức Tin. Chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác ngày nay — tất cả các giáo hội đó đều một thời có “những tư tưởng mới” mà Hội Thánh cho là ngoài Kho Tàng Ðức Tin. 

Hội Thánh có môt nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ sự ven toàn của Ðức Tin. Hội Thánh không bao giờ loại bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết án, nhưng đã có hai ngàn năm cầu nguyện và nghiên cứu đằng sau những gì phải tin và phải giữ gìn là chân thật.

Ðiều này không có nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở điểm gì. Luôn luôn có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về chân lý — thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân– tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc Ðức Tin. 

8.” Nếu giải thích đúng, Thánh Kinh không lên án đồng tính luyến ái. Nhưng đúng hơn là chống lối sống bừa bãi – dù là đồng tính hay giữa nam nữ. Vì vậy, chúng ta không có lý do để chống liên hệ tình yêu đồng tính.”

Khi hành vi đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa của chúng ta, thì sẽ có nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm đoán điều này cách tỏ tường trong Thánh Kinh. Hiện thời tiêu chuẩn của phe cấp tiến là cho rằng Thánh Kinh — khi hiểu đúng — không cấm những hành vi đồng tính. 

Nhưng luận điệu này hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Các câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođôm và Gômôra. Nếu bạn nhớ lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông Lót:

“Nhưng khi các ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: “Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi.” Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng,” rồi nói: “Thưa anh em, tôi xin anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi.” Chúng đáp: “Xê ra! Tên này là một kiều dân đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia!” Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK 19:4-10

Thông điệp của đoạn này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến ái muốn liên hệ tính dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ con gái ông, nhưng họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để đền tội dân chúng phạm — đó là các hành vi đồng tính luyến ái.  Sự thật này được Tân Ứớc xác nhận:

Như Sôđôm, Gômôra và các thành lân cận cũng có cùng một thái độ như họ, buông tuồng trong việc tà dâm, và chạy theo những chuyện xác thịt trái tự nhiên, thì đã được dùng để làm gương, bằng cách chịu phạt trong lửa đời đời. (Giuđa 7

Nhưng không phải chỉ có những đoạn này trong Thánh Kinh lên án hành vi đồng tính. Cựu Ước còn có một câu khác lên án cách rõ ràng: “Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm.” (Levi 18:22). 

Và những câu này không chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.

“Vì lý do đó mà Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi bại với đàn ông, và như thế chuốc vào thân hình phạt xứng với sự suy đồi của họ.” (Rom1:26-27

Thật khó vô cùng cho những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại. Ở đây không chỉ nói đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đống tính; nhưng Thánh Phaolô chống lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là “trái tự nhiên,” “tồi bại” và “đồi bại”). 

Các Kitô hữu cấp tiến bị trói tay. Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng tính luyến ái với Thánh Kinh? Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân lý của Thánh Kinh, và giải thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này. 

9. “Người Công Giáo nên theo lương tâm trong mọi sự… dù là phá thai, ngừa thai, hay phong chức thánh cho phụ nữ.”

Ðúng –Sách Giáo Lý nói rất thẳng, “Con người có quyền hành động theo lương tâm và sự tự do để tự mình quyết định về luân lý. “Không được cưỡng bách ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo ” (1782). Giáo huấn này là trọng tâm của điều gọi là có ý chí tự do. 

Nhưng điều đó không có nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm hay có thể gạt luật của Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có “một lương tâm được huấn luyện chu đáo.” 

Sách Giáo Lý trao cho lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề:

“Lương tâm luân lý, hiện diện trong lòng người, ra lệnh vào lúc thích hợp cho con người làm lành lánh dữ…. Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng cách chiếu theo Sự Thiện Hảo tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được thu hút và đón nhận mệnh lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe tiếng Thiên Chúa đang nói” (1777). 

Nói cách khác, lương tâm chúng ta không phải chỉ là “cái gì chúng ta cảm thấy đúng”; mà là những gì chúng ta phán quyết là đúng dựa theo những điều chúng ta biết là giáo huấn của Thiên Chúa và Hội Thánh.  Và để phán đoán, chúng ta có nhiệm vụ học hỏi và cầu nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách Giáo Lý có trọn một phần dành riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng — và nó quan trọng thế nào trong việc quyếtb định đúng. 

Và sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta làm: “Lương tâm giúp chúng ta gánh nhận trách nhiệm đối với việc chúng ta làm” (1781). Khi được đào luyện đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào chúng ta làm sai và cần được tha thứ tội lỗi chúng ta. 

Bằng cách cố gắng để có một lương tâm được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật sự cảm nghiệm được sự tự do lớn lao, vì chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý vô cùng của Thiên Chúa. Nó không phải là một gánh nặng hay là một cái gì ngăn cản chúng ta làm điều chúng ta thích; nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta làm những gì là đúng. “Việc giáo dục lương tâm đảm bảo sự tự do và đem lại bình an trong tâm hồn” (1784). 

10.”Phương Pháp Tự Nhiên chỉ là một cách ngừa thai của Công Giáo.”

Phương Pháp Tự Nhiên (PPTN) có kẻ thù mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách ngừa thai khác thiếu thực tế (mà cách nào họ cũng không cho là có tội) trong khi người khác lại cho rằng nó cũng xấu chẳng khác gì ngừa thai.. PPTN phải đi giữa ranh giới của hai cực đoan. 

Trước nhất, vấn đề chính của việc ngừa thai là nó ngược lại với bản chất của cơ thể chúng ta — và cách chung sự tự nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành động (tính dục) ra khỏi hậu quả (có thai), chính là hạ sự thánh thiện của tính dục xuống thành sự theo đuổi lạc thú thuần túy. 

PPTN, khi dùng vì lý do chính đáng, thì còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem đôi hôn nhân có phương tiện (dù là tài chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận một đứa trẻ vào cuộc đời của họ. Nó liên quan đến việc hiểu biết chính thân thể của mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn đề với bạn đời, và trên hết là cầu nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ của tính dục, bạn tham gia vào đó với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh liên quan. 

Những người ủng hộ việc hạn chế sinh sản chỉ vào những người không thể cố gắng có thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là những lý do hoàn toàn chính đáng để dùng PPTN — những hoàn cảnh mà phương pháp này hoàn toàn hiệu quả — và Hội Thánh cho phép dùng nó. 

Những người khác nghĩ rằng dùng bất cứ phương thức nào để giới hạn số con trong gia đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài thấy cần. Ðúng là chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn chấp nhận sự sống Ngài ban cho chúng ta, nhưng chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về phương diện này. 

Thí dụ, thay vì phung phí tiền bạc lung tung và nói rằng “Thiên Chúa sẽ cung cấp,” các gia đình cẩn thận dự trù ngân sách tài chánh và cố gắng không tiêu xài quá khả năng của mình. PPTN cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trong cuộc đời và hành động theo đó trong tinh thần cầu nguyện. Biết mình và dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động mong chờ Thiên Chúa lo liệu mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng ta được mời gọi để trở nên những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng ta phải cẩn thận đừng coi thường các ân huệ này. 

11. “Người ta có thể vừa ủng hộ phá thai (tự do chọn lựa) vừa đồng thời là Công Giáo.”

Trong khi đây là một huyền thoại thông thường nhất mà người Công Giáo hiểu về đức tin của họ, nó cũng là một điều dễ đánh tan nhất. Sách Giáo lý không chẻ một chữ nào khi nói về phá thai: nó được liệt kê cùng với tội giết người trong các tội phạm đến điều răn thứ năm, “Chớ giết người.” 

Những đoạn sau nói rõ: “Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai” (2270). “Ngay từ thề kỷ thứ nhất Hội Thánh đã xác nhận sự dữ về luân lý của mọi cuộc phá thai cố tình. Giáo huấn này không thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi” (2271). “Hợp tác chính thức vào việc phá thai là tội trọng. Hội Thánh gán hình phạt vạ tuyệt thông cho các tội phạm đến sự sống con người” (2272). 

Có thể nói rõ ràng hơn thế nữa. Tuy nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là người “tự do chọn lựa” không có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người cho rằng phá thai là sai, nhưng không muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người khác. 

Ðó là lại là luận “điều đúng cho bạn có thể không đúng cho tôi” mà thôi. Hội Thánh cũng có câu trả lời cho lập luận này: “Những quyền bất khả xâm phạm của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng. Những quyền này không lệ thuộc vào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hội và của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con người và gắn liền với con người do chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà từ đó sinh ra con người” (2273).. 

Tính linh thiêng của sự sống là một chân lý phổ quát không thể coi thường được. Khuyên ai phá thai, hay ngay cà bỏ phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá thai, là một tội trọng, vì nó đưa người khác đến tội trọng – là điều mà Sách Giáo Lý gọi là làm gương mù (2284). 

Hội Thánh mạnh dạn và dứt khoát chống phá thai, và chúng ta là người Công Giáo cũng phải khẳng định lập trường của chúng ta như thế. 

12. “Việc người ta nhớ lại cuộc sống ở kiếp trước chứng tỏ rằng luân hồi là đúng… và quan điểm của Kitô Giáo về Thiên Ðàng, Hỏa Ngục là sai.”

Khi xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn với những hiện tượng siêu hình, chúng ta có thể chắc sẽ thấy thêm những vụ nhận rằng “nhớ lại kiếp trước”. Quả thật, bây giờ có những tổ chức giúp bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng cách dùng thôi miên. 

Trong khi điều này có thể thuyết phục một số người, chắc chắn rằng không thuyết phục được những người quen thuộc với thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà khảo cứu đã ghi nhận rằng các bệnh nhân ngủ mê trong lúc bị thôi miên thường thêu dệt những câu chuyện ký ức phức tạp, mà sau đó được tỏ ra là không có thật. Những nhà chữa trị danh tiếng đã biết rõ hiện tượng này, và cẩn thận cân nhắc những gì bệnh nhân nói khi bị thôi miên. 

Ðáng buồn là đây không phải là trường hợp đối với những người muốn tìm “bằng chứng” của luân hồi. Có lẽ thí dụ điển hình nhất của sự bất cẩn này là trường hợp nổi tiếng của Bridey Murphy. Nếu bạn không biết chuyện đó, thì đây là một tóm lược: Năm 1952, một bà nội trợ ở Colorado tên là Virginia Tighe được thôi miên. Bà bắt đầu nói giọng Ái Nhĩ Lan và cho rằng có thời bà là một phụ nữ tên là Bridey Murphy sống ở Cork, Ái Nhĩ Lan. 

Câu chuyện của bà ta được viết thành cuốn sách bán chạy nhất, “Cuộc tìm kiếm Bridey Murphy,” và được nhiều chú ý. Các ký giả lục xoát khắp Ái Nhĩ Lan để tìm người nào, hay chi tiết nào có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước này. Trong khi không tìm được gì, trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được dùng để chống đỡ các lý luận về luân hồi. 

Ðây là một điều bẽ bàng, vì Virginia Tighe bị phanh phui là giả trá vài chục năm qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí tưởng tượng linh động của bà, và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp (thường xoay quanh tài nhái giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những chỉ có thế, mà bà còn rất thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ người Ái mà tên họ là — bạn oán xem — Bridie. 

Hơn nữa, Virgiania thêm vào câu chuyện trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác nhau từ chính đời sống của bà (mà không cho nhà thôi miên biết sự song đôi này). Thí dụ, Bridey diễn tả về “Bác Plazz,” mà các nhà nghiên cứu cho là cách nói sai của người Gaelic “Bác Blaise.” Tuy thế họ bị cụt hứng khi khám phá ra rằng Virginia có một người bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là “Bác Plazz.” 

Các nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig của Ái Nhĩ Lan trong một lần bị thôi miên.. Làm sao mà một bà  nội trợ ở Colorado lại học được cách nhảy jig? Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã học điệu nhảy này khi còn bé. 

Như trường hợp Bridey Murphy cho thấy, những việc nhận là trở lại tiền kiếp luôn luôn gợi cảm hơn thức tế. Cho đến ngày nay, chưa có một trường hợp nào chứng minh được là có một người nhớ lại được kiếp trước. Chắc chắn là cò nhiều câu chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên, bằng chứng của luân hồi (giông như Nàng Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng ta.

 

Tác giả: DEAL HUDSON

GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội

 

Giấy phép hoạt động y tế của phòng khám đã hết hạn hơn 1 năm

Bước vào bên trong phòng khám sản, nạo hút thai, số 934 – 936 Trương Định (Hoàng Mai, Hà Nội), những ngóc ngách nối liền trong hai ngôi nhà làm người vào cảm giác giống như những… địa đạo. Phía dưới tầng 1, trong căn phòng nằm sâu bên trong là cơ sở X – quang mà Giấy phép hoạt động y tế đã hết hạn từ ngày 29/1/2012.

Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 1
Cơ sở X – quang bên trong phòng khám 934 – 936 Trương Định mà Giấy phép hoạt động y tế đã hết hạn từ ngày 29/1/2012.

Nhưng đây lại là thiết bị đang được sử dụng hàng ngày để chẩn đoán bệnh cho rất nhiều bệnh nhân. Mà theo nhiều bác sĩ, dù nguy cơ từ chụp X – quang đối với thai nhi là thấp, nhưng họ vẫn thường khuyên thai phụ không nên chụp X – quang nếu không cần thiết.

Lên tầng hai, chúng tôi được cô y tá đưa thẳng vào khu vực có khoảng 4 chiếc giường inox lạnh lẽo, những chiếc chiếu cũ kỹ, những chiếc gối mốc và vài chiếc chăn mỏng cáu bẩn. Một bệnh nhân đang nằm lại đó với chai truyền đường, muối đang nhích dần về những giọt cuối cùng.

Theo lời kể của các y tá đang làm việc tại đây, phòng khám đa khoa phía Nam của bác sĩ C. ở địa chỉ 934 – 936 Trương Định được chia làm 3 tổ: Tầng 1 là tổ điều trị, tổ siêu âm ở tầng hai và tầng 3 là tổ sản – đây là tổ trực tiếp thực hiện các ca nạo hút thai từ nhỏ tới lớn.

Trung bình mỗi ngày, dưới những “bàn tay vàng” đang làm việc tại phòng khám “gia đình” này thì có khoảng 4 – 5 đứa trẻ vô tội đã vĩnh viễn bị tước đi cơ hội được làm người. Cái gọi là “gia đình” ấy được biểu hiện từ bác sĩ cho tới người quản lý, tiếp đón ở bàn phiếu rồi phòng khám, phòng siêu âm… đều là người nhà của bác sĩ C. Chỉ có nhân viên là người ngoài.

Và với hai máy siêu âm, có những ngày cao điểm ở phòng khám này tiếp nhận tới… rất nhiều ca thực hiện siêu âm thai, ổ bụng, tuyến vú… Nhịp làm việc liên tục ấy, khiến các nhân viên ở tổ siêu âm thường tới 7h tối mới được nghỉ.

Xả rác thải y tế vô tội vạ

Sau hai tháng theo sát những hoạt động của phòng khám phá thai khủng khiếp nhất Hà Thành này, đêm nào trên tầng 3 của phòng khám sáng đèn thì sáng hôm sau, khi chưa rõ mặt người, các nhân viên ở đây đã mang những túi nylon màu đen ra cửa để lẫn với rất nhiều rác thải sinh hoạt của các hộ gia đình khác.

Bên trong là những dây dịch truyền, kim tiêm, bông dính máu; cồn sát trùng kèm rác sinh hoạt bệnh nhân như bỉm, băng vệ sinh, sữa… Nhiều hôm, bên trong đó có tới 4 – 5 cái bỉm còn dính máu. Sau đó, toàn bộ số rác này sẽ được các nhân viên của công ty vệ sinh môi trường tới thu dọn.

Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 2
Cận cảnh bên trong phòng khám sản.

Chị H. người trực tiếp thu dọn rác trên đường Trương Định cho biết: Tại phòng khám sản 934 – 936 Trương Định, có ngày chị thu được tới 10 bọc nylon màu đen. Từ trong túi ấy, cái mùi tanh của máu vẫn còn ngai ngái tới khó chịu. Vì sợ kim tiêm đâm vào tay nên chị cũng không mở ra để kiểm tra bên trong có những gì.

Có hôm chị còn thu được những bọc nylon màu đen tương tự ở 1 con ngõ gần đấy. Là người chuyên đi thu gom rác thải nên chị biết, rác ấy được thải ra từ phòng khám sản 934 – 936 Trương Định.

Cũng theo lời kể của các nhân viên y tế thì bông băng, kim tiêm… được cho vào túi riêng. Còn toàn bộ dịch hút và thai to giao cho ông C. xử lý. Nhưng từ khi làm ở phòng khám đa khoa phía Nam này cho tới nay, các nhân viên y tế chưa thấy có cơ quan chức năng nào tới thu gom rác thải.

Toàn bộ rác thải y tế như bông băng dính máu, dây truyền dịch, kim tiêm, lọ thuốc thủy tinh đã sử dụng… đều được vứt ra ngoài hè, sau đó có nhân viên công ty vệ sinh môi trường tới hót và mang đi cùng với rác sinh hoạt của các hộ dân.

Khi chi sẻ về lý do bỏ thai, các nhân viên y tế ở đây kể với giọng ngậm ngùi: “Đã vào đây phá thai thì nhiều hoàn cảnh lắm. Có nhiều trường hợp đang mang thai nhưng bị chồng bỏ, khi đó họ đã có 2 – 3 đứa con nhỏ rồi, vì điều kiện kinh tế không nuôi được nên đành bỏ; hoặc trường hợp thai sản là sinh viên, khi thai nhỏ các bạn ấy không có tiền, đến khi chuẩn bị được tiền thì thai đã quá to; cũng có những người đi nước ngoài hứa hẹn nhau ở bên đó, cũng cho nhau địa chỉ nhưng khi về nước thì lại “bốc hơi”, địa chỉ kia cũng chỉ là ảo, chỉ tội nghiệp cô gái, nếu sinh ra thì lại lỡ dở một đời nên họ đành bỏ”…

“Theo quy định của Bộ Y tế, việc phân loại chất thải rắn y tế phải thực hiện ngay tại nơi phát sinh chất thải. Từng loại chất thải phải đựng trong các túi và thùng có mã màu kèm biểu tượng theo đúng quy định.

Mỗi loại chất thải được thu gom vào các dụng cụ thu gom theo mã màu quy định và phải có nhãn hoặc ghi bên ngoài túi nơi phát sinh chất thải. Các chất thải y tế nguy hại không được để lẫn trong chất thải thông thường.

Nếu vô tình để lẫn chất thải y tế nguy hại vào chất thải thông thường thì hỗn hợp chất thải đó phải được xử lý và tiêu hủy như chất thải y tế nguy hại. Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao, trước khi thu gom về nơi tập trung chất thải của cơ sở y tế phải được xử lý ban đầu tại nơi phát sinh chất thải…”.

Báo cáo của Cục Quản lý môi trường y tế cho thấy, cả nước có hơn 13.500 cơ sở y tế các loại và tổng lượng chất thải phát sinh rất nhiều cần được xử lý bằng những biện pháp phù hợp. “Nếu không được quản lý tốt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người dân cũng như môi trường…” – ông Nguyễn Huy Nga, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế (Bộ Y tế) cho biết.

Những hình ảnh về phòng khám này:
 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 3
Một góc cáu bẩn mốc xanh để những đồ dùng y tế đã qua sử dụng của phòng khám số 934 – 936 Trương Định
 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 4
Nhà vệ sinh của bệnh nhân
 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 5
Trang thiết bị sơ sài và lôm côm, chắp vá

 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 6
Trong căn phòng nằm sâu bên trong tầng 1 của phòng khám này là phòng X – quang mà Giấy phép hoạt động y tế đã hết hạn từ ngày 29/1/2012.
 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 7
Bồn rửa tay kiêm chỗ để đồ linh tinh chắp vá
 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 8
Phòng khám bé xíu cùng các thiết bị đã cũ kĩ
 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 9
Rác thải y tế được gói để trong nhà vệ sinh ngay cạnh buồng khám
 
Đột nhập phòng phá thai khủng khiếp nhất Hà Nội 10
Dây điện nhằng nhịt ngay trước cửa phòng X – quang
 
 
 

Luật pháp Hoa Kỳ và Giáo luật về ấn tín toà giải tội

 

Louisiana, Hoa Kỳ (WHÐ 11-07-2014) – Mới đây, Toà án tối cao của tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ vừa đưa ra phán quyết buộc một linh mục phải làm chứng về những điều nghe được trong toà giải tội vào năm 2008 liên quan đến một vụ án lạm dụng tình dục.

Cha Jeff Bayhi phải đối mặt với vạ tuyệt thông tiền kết nếu vi phạm ấn toà giải tội. Ngược lại, ngài cũng có thể phải đối mặt với việc vào tù nếu bị kết tội bất tuân lệnh toà án, vì từ chối ra làm chứng.

Ðó là trường hợp một cô gái 14 tuổi (vào năm 2008) cho biết cô đã nói với linh mục chính xứ giáo xứ Thánh Gioan Baotixita ở Zachary là cha Bayhi trong toà giải tội rằng cô đã bị một giáo dân trong giáo xứ – nay đã qua đời – lạm dụng tình dục.

Cha mẹ của cô gái đã kiện cha Bayhi và giáo phận Baton Rouge về việc không tố cáo vụ lạm dụng này. Họ thắng kiện tại toà án cấp quận khi đòi vị linh mục phải làm chứng, nhưng thua kiện tại Toà phúc thẩm Ðịa hạt I của tiểu bang Louisiana, trước khi Toà án tối cao của tiểu bang đảo ngược và huỷ phán quyết của Toà phúc thẩm.

Trong một phát biểu ngày 7 tháng Bảy năm 2014, cha Bayhi cho biết: “Như quý vị biết, một trong các bí tích cao cả để chữa lành của Giáo hội là bí tích giải tội. Bí tích này mang lại niềm hy vọng và an ủi cho mọi người Công giáo qua bao thế kỷ cho đến tận hôm nay”.

“Ấn tín toà giải tội là điều bất khả xâm phạm. Khi đến toà giải tội các tín hữu phải luôn được bảo vệ, đến mức, với tư cách linh mục thậm chí tôi còn không được nói ai đã xưng tội với mình, chứ đừng nói là tiết lộ nội dung những gì đã nghe”.

Hôm 7 tháng Bảy năm 2014, giáo phận Baton Rouge cũng ra một tuyên bố, nói rằng quyết định của Toà án Tối cao Tiểu bang đã vi phạm Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ.

“Một giáo lý nền tảng của Giáo hội Công giáo Roma hàng ngàn năm nay là ấn tín toà giải tội là tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Tuân giữ lời thề hứa với Giáo hội, một linh mục bị buộc không bao giờ được vi phạm ấn tín này. Linh mục cũng không được phép tiết lộ ai đã xưng tội với mình. Nếu cần, linh mục sẽ phải chấp nhận mang tội chống lệnh toà và chịu vào tù chứ không được phạm thánh, vi phạm ấn toà giải tội và nghĩa vụ với hối nhân”.

“Ðây là điểm rất rõ ràng trong giáo lý Giáo hội Công giáo Roma. Một linh mục giải tội vi phạm ấn toà giải tội tức khắc bị vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Toà Thánh”.

Tuyên bố của giáo phận nói thêm: “Trong vụ án này, cha Bayhi đã hành động một cách thích đáng và sẽ không làm chứng về những lời được coi là xưng tội. Luật Giáo hội không cho phép nguyên đơn (trong vụ án này là hối nhân bí tích giải tội) hay bất kỳ ai vi phạm ấn toà giải tội.

Tuyên bố nêu rõ: “Vấn đề này đụng đến cốt lõi của đức tin Công giáo, và việc một tòa án dân sự đòi hỏi điều tra xem một trường hợp cụ thể nào đó có phải là bí tích giải tội hay không, chính là hành động vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ một cách trắng trợn và thô bạo” .

“Vấn đề này gây hậu quả nghiêm trọng đối với tất cả các tôn giáo, chứ không chỉ riêng Công giáo. Các điều luật liên quan đến vấn đề này nói đến “sự hiệp thông thiêng liêng” vốn là bí mật và được miễn trừ việc buộc phải báo cáo”.

Tuyên bố kết luận: “Một toà án dân sự can thiệp vào tự do tôn giáo là một sự vi phạm rõ ràng và vấn đề này sẽ được Giáo hội đưa lên toà án cao nhất của quốc gia để bảo vệ việc tự do hành đạo”.

(CNS)

 

Minh Ðức

Đức Giáo hoàng Francis giao lưu lãnh đạo tôn giáo Hàn Quốc

TG&DT – Sáng thứ Hai, vào lúc 09 giờ ngày 18 tháng 08 năm 2014, Hòa thượng Jasung, lãnh đạo Thiền phái Tào Khê và 12 vị chức sắc lãnh đạo Tôn giáo Hàn Quốc đã gặp gỡ giao lưu cùng đức Giáo hoàng Francis tại Bảo tàng tầng trên nhà thờ Myeongdong, Seoul.
Cuộc hành trình rất dài đối với cuộc sống, trước khi Thánh lễ cho hòa bình và hòa giải, khi đã gặp các vị chức sắc lãnh đạo Tôn giáo Hàn Quốc, đức Giáo hoàng Francis mở lời chào thân ái và nói rằng: “Con đường không bao giờ đơn điệu đi một mình. Chúng tôi là anh em tình đạo hữu. Hãy để chúng tôi cùng nhau đi và nhận nhau như huynh đệ”.

Sau khi chào hỏi thân ái trong tình đạo hữu và nhận được quà tặng khác nhau từ mỗi người, đức Giáo hoàng đã đưa ra một thông điệp đơn giản bằng tiếng Tây Ban Nha được phiên dịch bởi Linh Mục John Chong Che Chon, tân Giám tỉnh Dòng Tên tại Hàn Quốc, người thông dịch và là thư ký cho đức Giáo hoàng trong suốt cuộc công du Hàn Quốc.

Đức Giáo hoàng nói: “Cuộc sống là một hành trình, một cuộc hành trình dài, nhưng một cuộc hành trình mà không thể  đi đơn điệu một mình, thay vào đó lại cùng nhịp bước với anh em của chúng ta trong sự hiện diện của Thiên Chúa”.

“Tôi cảm ơn các huynh đệ vì cử chỉ này, cuộc hành trình cùng nhau trong sự hiện diện của Thiên Chúa, đó là những gì Thiên Chúa đòi hỏi Abraham.

“Chúng ta là anh em. Tôi nhận ra rằng hành trình Chúng ta là anh em. Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta và tôi yêu cầu quý vị cầu nguyện cho tôi.”

Trong bài phát biểu vừa qua với các Giám mục châu Á, đức Giáo hoàng ghi nhận rằng trong các quốc gia của châu lục này, các cộng đồng Kitô hữu là một “đàn chiên nhỏ bé,” nhưng được bảo vệ bởi Mục Tử Nhân Lành.

Ngài đã nói chuyện với các Giám mục về sự cần thiết cho một căn tính Kitô giáo mạnh mẽ như là điểm khởi đầu cho cuộc đối thoại. Ngài cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải lắng nghe bằng sự đồng cảm, tạo điều kiện cho “một cuộc gặp gỡ thực sự, trong đó trái tim nói với trái tim.”

Kết thúc buổi chia sẻ, Hòa thượng Jasung nói: “Chuyến viếng thăm và giao lưu với các chức sắc lãnh đạo Tôn giáo Hàn quốc của đức Giáo hoàng, sẽ tác động ảnh hưởng đến sự ổn định hòa bình trên toàn thế giới. Chúng tôi luôn lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần hòa kính Tôn giáo bạn, trên từng bước chân an lạc hòa bình, chúng tôi tin rằng đây sẽ là một khởi động ở bán đảo Triều Tiên thông qua việc hòa giải và hợp tác”.

Thích Vân Phong

 
 

Giáo lý Hội Thánh Công giáo về hôn nhân đồng giới

Sau đây xin trích đăng giáo lý Hội Thánh Công giáo về vấn đề đồng tính luyến ái (các số 2357, 2358, 2359).
imagesCAIT6BWM
Ðức khiết tịnh và sự đồng tính luyến ái
2357 Ðồng tính luyến ái là những liên hệ giữa những người nam hay nữ cảm thấy bị lôi cuốn tính dục với người đồng phái nhiều hơn với người khác phái. Ðồng tính luyến ái xuất hiện trong nhiều thời đại và văn hóa, với nhiều hình thức khác nhau. Cho đến nay, người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân tâm thần của hiện tượng này. Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng (x. St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1Tm 1,10), truyền thống HộiThánh luôn tuyên bố: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn” (x. Bộ Giáo lý đức tin, Tuyên ngôn “Persona humana” 8). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên vì loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.
2358 Ðừng quên một số người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Ðối với đa số những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống và, nếu là Kitô hữu, họ nên kết hợp các khó khăn gặp phải do hoàn cảnh đặc biệt của mình với hy tế thập giá của Chúa.
2359 Những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi sống khiết tịnh. Họ có thể và phải cương quyết tiến dần đến sự toàn thiện Kitô giáo nhờ kinh nguyện và ân sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng đỡ của một tình bạn vô vị lợi.
WHĐ

Đau Khổ Có Giá Trị Cứu Độ

Sợ khổ và sợ chết có thể là các điều bí ẩn không thể vượt qua. Nhưng đó là những điều không cần vượt qua.

Không có niềm tin nào loại trừ chúng ta khỏi kinh nghiệm đau khổ, cô đơn, và chết chóc. Tiền bạc, quyền lực, và mọi thứ trên thế gian này thường làm cho thêm tệ hại hơn mà thôi.

Theo thiển ý của tôi, tôi bắt đầu thắc mắc lời của Cô-he-lét (Qoheleth) có tiêu cực hay không: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1:2). Những thứ trần tục này, dù điều đó tốt hay xấu, sẽ qua đi mà thôi. Nhưng điều này không làm giảm nhẹ nỗi sợ khổ và sợ chết. Mặc dù chúng qua đi, chúng vẫn bám theo chúng ta suốt đời.

safe_image

Đối với tôi, bí ẩn này chỉ có thể giải quyết bằng Thập Giá. Đối với tôi, thập giá là nền tảng của thần học. Thập giá là khoảnh khắc hóa thân mà tình yêu và đau khổ gặp nhau. YÊU vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16), và KHỔ vì phàm nhân ảnh hưởng bởi tội lỗi và sự chết (St 3:16). Đức Kitô đã tự chấp nhận tình trạng của loài người. Khi mô tả điều này trong ngôi vị của Ngài, tôi tin điều đó được hoàn tất nhờ sự hy sinh của Ngài. Chỉ trong cái chết của Ngài trên Thập Giá mà thôi: “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:19-20).

Tại sao tôi tiếp cận thần học này?

Thứ nhất, nếu Đức Kitô chấp nhận mặc xác phàm, Ngài cũng hoàn toàn chấp nhận mọi đau khổ, cô đơn, và cái chết. Ngài không tránh né, nhưng chịu đựng và trải nghiệm một cách trọn vẹn. Như vậy, bất kỳ sứ vụ nào được Chúa Giêsu linh hứng đều là sứ vụ vui vẻ đón nhận và trải nghiệm trọn vẹn thân phận con người.

Thứ nhì, nếu Đức Kitô không hòa giải mọi loài với Ngài thì sao? Nếu vậy, Ngài cũng không hòa giải những gì là hèn hạ đối với sự hiện hữu của phàm nhân chúng ta. Như vậy, gặp phải điều hèn hạ, ghê tởm và phiền toái là cơ hội để chúng ta gặp gỡ Đức Kitô trong tình trạng cao thượng, tốt đẹp và vui mừng. Không có sự phân biệt nào trong những gì Chúa Giêsu đã đưa vào bản tính nhân loại của chúng ta. Ngài trở nên giống như chúng ta hoàn toàn, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4:15)

Như vậy, tôi cố gắng tiếp cận thần học Công giáo về sự đau khổ. Cách thứ nhất là quan điểm của Công giáo về đau khổ, nói đúng hơn là đau khổ mang tính cứu độ, có giá trị cứu độ.

Có nghĩa gì khi nói đau khổ có giá trị cứu độ? Chỉ có điều này: Đau khổ của chúng ta được kết hợp với đau khổ của Đức Kitô trong sứ vụ cứu độ. Sao lại như vậy? Đức Kitô đã “kết hôn” với Giáo hội là Hiền Thê của Ngài, và “cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Hơn nữa, “có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người” (Ep 5:29-30). Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được liên kết với Đức Kitô và Giáo hội.

Chúng ta được kết hiệp với Nhiệm Thể Đức Kitô để chúng ta nên MỘT với Ngài. Thánh Phaolô nói: “Mầu nhiệm này thật cao cả: Đức Kitô và Giáo hội” (Ep 5:32). Kinh Thánh nói rằng khi Saolê bắt bớ những người theo Đức Kitô, Chúa Giêsu đã nói:“Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?”. Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9:4-5). Cuối cùng, Thánh Phaolô đã chấp nhận tất cả: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1:24).

Đức Kitô đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để thực hiện sứ vụ cứu độ cả thế giới và mọi thời đại. Giáo hội được trở thành Tân Nương và chính Ngài là Đầu của thân mình. Chúng ta là các chi thể trong Nhiệm Thể Ngài. Chúng ta thông phần đau khổ với đau khổ của mọi người và của chính mình. Đức Kitô đồng hóa với chúng ta, nhất là với những người đau khổ:“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40). Vậy tại sao chúng ta lại không muốn đồng hóa với Ngài?

Đức Kitô mặc lấy nhân tính để cứu độ nhân loại, tôi chắc chắn Ngài cũng cứu độ sự đau khổ. Đau khổ mà chúng ta trải qua có thể được kết hiệp với Đức Kitô ngay cả sau khi sự phục sinh được giải thích cho Saolê rằng “chính Ngài đang bị bắt bớ”. Đau khổ của Đức Kitô vẫn tiếp diễn trong Nhiệm Thể của Ngài là Giáo hội, vì chúng ta sống trong một thế giới được cứu độ nhưng chưa được cứu thoát. Kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Đức Kitô là chúng ta chịu đau khổ vì Nhiệm Thể Đức Kitô (x. Cl 1:24)

Thật ra “Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ” (Dt 7:27b). Như vậy, chúng ta cũng phải “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12:1). Nghĩa là tôi trải nghiệm chính mình và người khác cũng được hưởng ơn cứu độ của Đức Kitô dành cho người chịu đau khổ (và cả tôi nữa). Khi tôi thông phần đau khổ của người khác, tôi cố gắng thông phần đau khổ của Đức Kitô và của chính mình.

S.O.S., lạy Thầy Giêsu, con tín thác nơi Ngài, xin cứu độ và cứu thoát con!

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

Lễ Chúa Hiển Dung, 6-8-2014