Archive | June 2018

10 mẹo nhỏ để thắng nỗi sợ khi đi xưng tội

Xưng tội đòi hỏi phải có tấm lòng khiêm tốn và can đảm. Một khi bước được bước đầu tiên thì mọi sự thành dễ dàng chứ không như mình nghĩ. Đầu tiên hết, chỉ cần bỏ một vài thành kiến và có một phương pháp tốt.
10 mẹo nhỏ để thắng nỗi sợ khi đi xưng tội

 

Tại sao chúng ta sợ xưng tội? Vì rụt rè? Vì… di truyền? Vì sợ, vì xấu hổ khi thú nhận các tội mình đã phạm? Đã phạm những tội rất trọng đến không thể tha thứ được? Rất nhiều lý do làm cho chúng ta cảm thấy ngại khi nghĩ đến việc đi xưng tội. Một vài người thấy đây là khổ hình sỉ nhục. Có người cảm thấy bứt rứt đến mức như bị chận lại, không thể đi xưng tội được.

Nhưng tất cả đều mong muốn làm sao bứt được xiềng xích này, để có được niềm vui của người phạm tội được tha thứ. Không, Chúa Giêsu không làm ra bí tích giải tội để làm cho chúng ta buồn, lo âu bứt rứt, nhưng Ngài muốn giải thoát và mang lại niềm vui cho chúng ta. Các bạn chỉ cần nhìn gương mặt của những người vừa xưng tội xong thì thấy rõ… Vậy, sau đây là mười mẹo nhỏ để vượt lên nỗi sợ này và làm cho giây phút này thành giây phút mang lại niềm vui cho chúng ta và chúng ta muốn tiếp tục đi xưng tội lại. 

Bắt đầu bằng một ý tưởng tốt

Đầu tiên là đuổi ra khỏi đầu ý tưởng… “đừng mất công… cũng đã lâu mình không còn đi xưng tội nữa”. Không bao giờ quá trễ để ăn năn, để bắt đầu lại.

“Thẳng thắn” với chính mình, chấp nhận mình đã phạm các sai lầm, mình không thể nào kiểm soát hết tất cả trạng huống. Rồi xin Chúa giúp một tay. Cầu nguyện xin Chúa cho mình sức mạnh và can đảm để bước đi bước đầu tiên. Đó là tất cả những gì Chúa mong chờ. 

Hãy thoải mái

Bất cứ cha nào cũng giải tội được, nhưng nếu đây là bước đầu để có tin tưởng thì bạn chọn một linh mục nào bạn cảm thấy thoải mái, hoặc với một linh mục mình không quen.

Ghi lại các tội

Viết trên giấy hay trong sổ tay các giai đoạn tiếp nhau khi xưng tội để khỏi bị lo, bị chia trí vì quá sợ.

Đi sớm

Đi sớm một chút. Nhắm mắt và nghĩ Chúa đang nhìn mình với ánh mắt yêu thương và đầy lòng thương xót. Hãy hình dung Chúa bằng xương bằng thịt và cầu nguyện.

Không phải là kỳ thi

Nhớ rằng khi đứng trước cha giải tội thì không phải như đứng trước kỳ thi. Nếu không biết “làm sao làm” thì chỉ cần đơn sơ nói ra. Nếu sợ phải nói ra thì bạn nên nhớ, cha giải tội tuyệt đối giữ kín những gì bạn xưng.
Không xấu hổ

Thú nhận trước tiên những tội làm mình xấu hổ, làm mình bị sỉ nhục nhất, để cất khỏi gánh nặng đang đè nặng, để ánh sáng tình yêu của Chúa thấm nhập vào tâm hồn, và để thấy tính kiêu ngạo ăn sâu đã ngăn chúng ta yêu thương và để mình được yêu thương.

Nói hết

Không giấu giếm gì. Ngược lại, cũng đừng sợ khi lần nào cũng xưng cùng một tội. Mỗi lần mình té là mỗi lần Chúa vực mình dậy. Chúa muốn như thế và chúng ta đừng bao giờ bỏ cuộc. Điều thiết yếu là đừng buông bỏ việc đi xưng tội.

Đừng biện minh

Đừng tìm cách biện minh cho các tội vừa xưng. Chúa biết việc này. Ngài biết hết tất cả những tội có trong lòng chúng ta. Chúng ta không có gì phải “nói” cho Chúa biết. Đi xưng tội là để nói lên tội và nỗi đau của mình để Ngài giải thoát, tha thứ và chữa lành cho chúng ta. Vấn đề không phải là biết tội trầm trọng đến mức như thế nào, nhưng để biết Chúa nhân lành đến như thế nào.

Suy nghĩ đúng

Đừng đồng hóa việc đền tội với hình phạt. Trừng phạt là hành vi được áp đặt lên, ngược với trừng phạt, đền tội là thành ngữ của tấm lòng sầu não và chân thành để “đền tạ các thiệt hại đã gây ra” và xóa đi các tổn thương mà tội đã làm hại cho người khác. Đền tội là việc làm trong tình bằng hữu. Các tội được giao vào bàn tay của Chúa, Chúa quên tất cả và mình đi tới đàng trước.

Marta An Nguyễn dịch

 

Nguồn tin: Phanxico

Lịch sử bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Có một truyền thống từ thế kỷ 16 kể lại rằng một lái buôn từ đảo Crete đã ăn cắp một bức ảnh hay làm phép lạ từ một nhà thở ở đảo này. Ông đã dấu bức ảnh trong hàng hoá của mình và cằng buồm đi về hướng tây. Nhờ sự quan phòng cách đặc biệt và nhiệm màu của Thiên Chúa, ông đã sống sót qua cơn bão hãi hùng và cập bến an toàn. Sau đó hơn một năm ông làm một chuyến hành trình đến Roma và đem theo bên mình bức linh ảnh ông đã lấy cắp.
Lịch sử bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Lịch sử bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Ở Roma ông đã lâm trọng bệnh và tìm một người bạn chăm sóc cho ông. Trong giờ lâm tử, ông đã tiết lộ bí về bức linh ảnh cho người bạn, và van xin người hãy trao trả lại bức linh ảnh này cho một nhà thờ nào đó. Người bạn của ông hứa sẽ hoàn tất ước muốn này, nhưng vì vợ anh không muốn từ bỏ một báu vật quý giá như vậy, và mãi đến khi người bạn chết mà lời hứa vẫn chưa được thực thi.

Cuối cùng, Đức Trinh Nữ Xuất hiện ra với đứa con gái sáu tuổi của gia đình nơi thành Roma này và nói với cô bé để nói với mẹ và bà của cô bé rằng bức linh ảnh Rất Thánh Maria, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nên được đặt trong nhà thờ thánh Matthew Tông Đồ, nằm giữa vương cung Thánh Đường Đức Bà Cả và đền thánh Thánh Gioan Latêranô.

Sau nhiều nghi vấn và khó khăn, truyền thống ghi lại làm thế nào bức linh ảnh được đặt lại nơi nhà thờ thánh Matthew. “người mẹ vâng lời và sau khi tham khảo ý kiến ​​các linh mục phụ trách Hội Thánh địa phương, bức linh ảnh Đức Trinh Nữ được đặt trong đền thờ thánh Matthew vào ngày 27 tháng 3 năm 1499″. Ở đây, bức linh ảnh sẽ được tôn kính trong suốt 300 năm tiếp theo. Như thế, bước sang giai đoạn thứ hai trong lịch sử của bức linh ảnh, và lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bắt đầu lan rộng khắp thành Rome.

Ba thế kỷ trong đền thở thánh Mátthêu

Nhà thờ thánh Matthew không thật sự lớn nhưng ngồi đền thờ này lại sở hữu một kho tàng vô giá đã lôi cuốn nhiều tín hữu: Bức Linh Ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Từ 1739 đến 1798, nhà thờ và tu viện bên cạnh đó dưới sự cai quan của các tu sĩ dòng Augustinô, người Ailen, những người đã bị đày đi ra khỏi đất nước họ một cách bất công, thế nên các tu sĩ đã phải sử dụng tu viện ở đây như một trung tâm đào tạo nhân sự của họ cho tỉnh dòng Roma. Các tu sĩ trẻ giữa những ồn ảo, biến động của thời cuộc đã tìm thấy sự bình an ở nơi đây nhờ sự hiện diện của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong giai đoạn đào tạo để tiến tới chức linh mục, những nhà thừa sai và những vị tử đạo trong tương lai.

Trong năm 1798, ở Rome xảy ra chiến tranh. Hầu hết các nhà thờ và các tu viện bị phá huỷ hoàn toàn. Các tu sĩ dòng Thánh Augustine vẫn cố bám trụ ở đây thêm vài năm nữa, nhưng cuối cùng họ cũng phải rời đi. Một số về lại cố hương Ailen, số khác đi lập cộng đoàn mới ở Hoa Kỳ, trong khi đó phần lớn các tu sĩ dòng này chuyển đến sống ở các tu viện vùng lân cận. Nhóm tu sĩ đến sống ở vùng lân cận đã đem theo với họ bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Đây khởi đầu cho giai đoạn thứ ba của bức linh ảnh, “những năm tháng bị lãng quên”.

đức mẹ cứu giúp

Năm 1819, các tu sĩ dòng thánh Augustine chuyển đến nhà thờ Đức Maria ở Posterula, gần cầu Umberto I bác qua sông Tiber. Bức linh ảnh cùng với họ đến ở nhà thờ thánh Mattew được dâng kính cho Đức Trinh Nữ. Tuy nhiên, bởi vì đền thờ này đã được dâng kính cho Đức Bà Ban Ơn nên khi bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp lúc mới đến được đặt ở một nhà nguyện riêng trong nội vi tu viện nơi các tu sĩ cầu nguyện. Với thời gian và không ai biết về gốc tích lạ lùng của bức linh anh nên bức linh ảnh đã không được tôn kính đúng mức. Dường như tất cả mọi người đã quên bức lính ảnh này, ngoại trừ một tu sĩ trẻ người xuất thân từ tu viện của nhà thờ thánh Matthew.

Vị Tu sĩ già và cậu bé giúp lễ

Năm tháng trôi đi, và hình như là bức linh ảnh đã mang lại nhiều ơn lành cho dân chúng ở nhà thờ thánh Matthew giờ đây đã bị thất lạc và chìm vào trong quên lãng. Một cậu bé giúp lễ tên là Michael Marchi thường viếng nhà thờ Thánh Maria ở Posterula và cậu bé trở thành rất thân thiết tu sĩ dòng thánh Augustine. Mãi về sau, như cha của cậu bé giúp lễ, ông Michel sẽ viết:

“Đây là một tu sĩ đạo đức thường xuyên nói với tôi về một tâm trạng lo lăng và mang tính huyền bí, đặc biệt vào những năm 1850 và 1851. Đây tôi lặp lại chính xác những lời vị tu sĩ này chia sẻ: ‘Hỡi con (cậu bé giúp lễ), con phải nhớ chắc chắn điều này là bức linh ảnh rất thánh Đồng Trinh ở nhà thờ thánh Matthew được treo ở trong nhà nguyện: Đừng quên bức linh ảnh nhé! Con có hiểu không? Đó là một bức linh ảnh hay làm phép lạ. Khi mà nói những lời này thì cặp mặt của vị tu sĩ đạo hạnh này hầu như đã bị loà hầu như không nhìn được nữa.”

“Điều tôi có thể nói về bức ảnh đáng kính này của Đức Trinh Nữ tại nhà thờ thánh Matthew, cũng được gọi là bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, là ngay từ thời thơ ấu của tôi mãi cho đến khi tôi vào Hội Dòng (Dòng Chúa Cứu Thế), tôi đã luôn luôn nhìn bức linh ảnh được treo trên bàn thờ của nhà nguyện của các cha dòng thánh Augustine thuộc tỉnh dòng Ailen ở Posterula… Ở đó bức linh ảnh không được tôn kính gì cả, không được trang trí, thậm chí không có một ngọn đèn hay cây nến nào được thắp lên trước bức linh ảnh… Bức linh ảnh bị bỏ không với bụi bặm. Nhiều lần giúp lễ ở đó, tôi đã chiêm ngắm bức linh ảnh với một nỗi lòng đặc biệt.”

Thầy dòng thuộc hội dòng thánh Augustine này chết vào năm 1853, ở độ tuổi đáng kính, 86 tuổi, tuy nhiện ước nguyện của vị tu sĩ này vẫn chưa được mãn nguyện là muốn được nhìn thấy bức linh ảnh này được tôn kính một cách công khai trở lại. Những lời cầu nguyện liên lỉ và sự tín thác vô bờ bến của vị tu sĩ này vào Đức Trinh Nữ Maria dường như chưa có câu trả lời.

Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Tái Khám Phá Bức Linh Ảnh

Vào tháng Giêng năm 1855, các vị thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế đã mua toà nhà Caserta ở Rome, với mục đích sử dụng nó trở thành ngồi nhà trung ước cho sứ vụ của hội dòng trong việc vươn tới Tây Âu và Bắc Mỹ. Khu đất mà các thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế mua lại chính là nơi mà xưa kia nhà thờ thánh Matthew và tu viện của các cha dòng Augustine đã bị làm mất dấu tích bởi thời gian và bởi chiến tranh. Lúc mua khu vực này các cha Dòng Chúa Cứu Thế không hề biết về quá khứ xa xưa của mảnh đất mà mình mua, nơi mà đã được chọn bởi Đức Trinh Nữ Maria. Các cha Dòng Chúa Cứu Thế chỉ thuần tuý mua một miếng đất nằm ở giữa Đền Thờ Đức Bà cả và vương cung thánh đường Gioan Lateranô.

Bốn tháng sau đó, công việc xây dựng bắt đầu bằng việc xây một nhà thờ để tôn kính thánh danh Chúa Cứu Thế và dâng kính thánh Alphonsus Liguori, đấng sáng lập của Hội dòng. Vào ngày 24 tháng 12 năm 1855, một nhóm các bạn trẻ đã được quy tu về tu viện mới này để bắt đầu năm tập viện của họ. Một trong số những người tham gia tập viện năm đó có một người tên là Michael Marchi.

Các vị thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế vô cùng quan tâm đến lịch sử nơi mà tu viện mới của họ đang sử dụng. Họ lại càng quan tâm hơn nữa khi vào ngày 07 tháng 02 năm 1863, họ bị chất vấn bởi một câu hỏi từ một bài giảng được trình bày bởi một nhà giàng thuyết lừng danh Dòng Tên thời bấy giờ, cha Phanxicô Blosi về một bức linh ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Bức linh ảnh này được đặt ở nhà thờ thánh Matthew trên khu vực Merulana và được biết đến như là Đức Trinh Nữ của thánh Matthew, hay phải nói chính xác hơn là Đức Trinh Nữ Hằng Cứu Giúp.”

Trong một chiều kích khác, các nhà nghiên cứu lịch sử thuộc hội Dòng Chúa Cứu Thế đã “tham chiếu một số học giả đã viết về di tích cổ của thành Roma và tìm tòi các tài liệu viết về nhà thờ thánh Matthew. Trong các tài liệu nói về khu đất mà Dòng Chúa Cứu Thế đang sử dụng có một chi tiết hết sức đặc biệt nói về một nhà thờ (nhà thờ này nằm ở vị trí cái vườn của tu viện bây giờ), và nhà thờ này có một bức linh ảnh rất cổ về Đức Trinh Nữ Mẹ của Thiên Chúa. Bức linh ảnh này được sùng kính một cách đặc biết và nổi tiểng với nhiều phép lạ.”

Sau đó, tất cả những thông tin, những khảo cứu này được trình bày trong cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế, và một cuộc hội thảo bắt đầu để tìm kiếm xem hiện giờ bức linh ảnh có thể đang ở đâu. Cha Marchi nhớ lại tất cả những điều mà ngài nghe được từ một tu sĩ già khả kính, Orsetti thuộc dòng thánh Augustine khi ngài còn thiếu thời. Ngài đã nói với các anh em trong cộng đoàn rằng ngài biết rất tường tận về bức linh ảnh, và đã từng nhìn thấy bức linh ảnh này. Ngài biết có thể tìm thấy nó ở đâu.

a

Dòng Chúa Cứu Thếnhận lại bức Linh Ảnh

Nhờ thông tin mới này, sự quan tâm giữa các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế để biết thêm về bức linh ảnh và làm thế nào để đưa bức linh ảnh này về lại cho nhà thờ của họ càng gia tăng. Bề Trên Tổng Quyền, Cha Nicholas Mauron, thảo một bức thư gửi cho Đức Giáo Hoàng Piô IX, xin Tòa Thánh trao bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cho Dòng Chúa Cứu Thế và bức linh ảnh này được đặt trong vương cung thánh đường Đấng Cứu Thế và Thánh Anphongsô mới được xây. Thánh đường mới này nằm ngay bên cạnh nơi mà xưa kia là đền thờ thánh Matthew. Đức Giáo Hoàng đã chấp nhận lời thỉnh cầu của cha bề trên tổng quyền Dòng Chúa Cứu Thế và ở mặt sau của bản chấp nhận lời thỉnh cầu, ngài đã viết bằng tay những lời như sau:

Ngày 11 tháng 12 năm 1865: Đức Hồng Y tổng trưởng bộ truyền giáo triệu vời Bề Trên của cộng đoàng Thánh Maria ở Posterula và loan báo cho cha biết rằng đó là ước ao của Toà Thánh bức linh ảnh Mẹ Rất Thánh, được đề cập đến trong bản kiến nghị, phải được đem đặt trở lại giữa Đền Thờ Đức Bà Cả và vương cung thánh đường Gioan. Dòng Chúa Cứu Thế chính là nơi thích hợp để tái đặt bức linh ảnh này.

Theo như được kể lại, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã căn dặn Bề Trên Tổng quyền Dòng Chúa Cứu Thế rằng: “Các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế hãy làm cho cả thế gian biết đến Mẹ”. Vào tháng Giêng năm 1866, Cha Michael Marchi và cha Ernest Bresciani đi đến nhà thờ Thánh Mary ở Posterula để nhận bức linh ảnh từ các tu sĩ dòng thánh Augustinô.

Ngay sau đó bắt đầu tiến trình lau chùi và làm mới bức linh ảnh. Nhiệm vui này được giao phó cho một hoạ sĩ người Ba lan, tên là Leopold Nowotny. Cuối cùng vào ngày 26 tháng 4 năm 1866, bức linh ảnh được trưng bày trở lại để cho tôn kính công khai ở nhà thờ thánh Anphongsô ở đại lô Merulana.

Với biến cố này, giai đoạn thứ tư trong lịch sử của bức linh ảnh bắt đầu: bức linh ảnh bắt đầu lan ra khắp thế giới.

Việc Phục Hồi gần đây nhất của Bức Linh Ảnh

Năm 1990, bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được tháo xuống khỏi bàn thờ chính hầu đáp ứng các yêu cầu của rất nhiều người trong việc sao chép từ bức linh ảnh gốc này. Khí đó phát hiện tình trạng xuống cấp trầm trọng của bức linh ảnh. Khung gỗ cũng như nước sơn đã bị hư hại do những thay đổi của khí hậu và tiến trình phục hồi được bắt đầu. Bề trên trung ương của Dòng Chúa Cứu Thế nại đến sự giúp đỡ của các chuyên viên kỹ thuật trong viện bảo tàng của Vatican hầu tìm cách đối phó với các vết rạn nứt hay những chỗ bị mối mọt nguy hiểm tới bức linh ảnh.

Việc đầu tiên của quá trình phục hồi là việc sử dụng các tia X quang, tia hồng ngoại để phân tích, để xác định tính và định lường về loại sơn được vẽ trên bức linh ảnh. Kết quả của các phân tích này, đặc biệt là sự phất tích về tầng Carbon cho chúng ta biết rằng cái khung gỗ của bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu giúp có niên đại vào khoảng những năm 1325 đến 1480.

a

Bước thứ hai của tiến trình phục hồi là việc chữa các vết nứt, các chỗ lũng trong khung gỗ, làm sạch sơn và tổ sửa các phần bị ảnh hưởng, làm chắc chắn lại cấu trúc hình ảnh của bức linh ảnh…v.v. Việc can thiệp vật lý này bị hạn chế tối đa vì tất cả các công việc phục hồi, nó tương tự như phâu thuật một cơ thể vậy, luôn có thể gây ra một số chấn thương. Một phân tích nghệ thuật về màu sắc, sắc tố của sơn trên bức linh ảnh cũng chỉ ra rằng một số chỗ được sơn vào sau đó (sau thế kỷ 17). Điều này lý giải tại sao các biểu tượng trong bức linh ảnh cung cấp một tổng hợp các yếu tố pha trộn giữa Phương Đông và Phương Tây, đặc biệt các chi tiết trên các khuân mặt ở trong bức linh ảnh. □

KẾT LUẬN

Tôi đã từng nghe một câu chuyện cổ xưa về thánh Anrê mà tôi tin rằng tôi nên kể câu chuyện này như để kết thúc cuốn sách về linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Câu chuyện tưởng tượng này có thể tóm kết kinh nghiệm về bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong đời đời sống của vô vàn tín hữu.
Chuyện kể rằng, sau khi bị tử vì đạo, thánh Anrê vào trong thiên đàng sau một cuộc đời sống trên dương gian với một tình yêu nồng nàn đối với thập giá của Chúa Kitô và Mẹ của Thiên Chúa, người đã chứng kiến những đau khổ và cái chết trên thập giá của con mình.

Khi được chấp nhận vào thiên đàng, thánh nhân bắt đầu đi tìm kiếm Mẹ Thiên Chúa. Thánh nhân hỏi vị thiên thần, người đang hướng dẫn thánh nhân đi qua các tầng trời, “Đức Mẹ ở đâu vậy?”
Thiên thần trả lời thánh nhân: “Mẹ không ở đây đâu. Mẹ đang lang thang dưới đất giữa những bộn bề đau khổ, đang làm khô đi những dòng lệ sầu của các con cái Mẹ đang than khóc.”

Mừng Vui Lên, Hỡi Trinh Nữ!
Mừng vui Lên, hỡi Đấng đầy ân sủng!
Nguồn tin: Nhà Thờ Thái Hà

Những khác biệt giữa Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo

Hỏi: Trong bài trước cha đã nói đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích, phụng vụ .v.v Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành.
Những khác biệt giữa Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo
Những khác biệt giữa Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo
Trả lời:

Như đã giải thích trong bài trước, cả ba Nhánh Kitô Giáo trên đây, từ đầu,  đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là KitôGiáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian,  đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) hoặc những cải  cách (reformations) đáng tiếc xảy ra  khiến KitôGiáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên đây. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo ( Anglican Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã ( Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được.. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.

I- Chính Thống  (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo La Mã ( Roman Catholicism) ra sao?

Trước hết, danh xưng Chính Thống “Orthodoxy”, theo ngữ căn (etymology) Hy lạp ” orthos doxa”, có nghĩa là  “ca ngợi đúng (right-praise), “tin tưởng đúng ” ( right belief) . Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính( sound doctrines) , tinh tuyền của KitôGíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy).Do đó,trong bối cảnh này, từ ngữ  “orthodoxy” được dùng để đối nghịch với từ ngữ ” heresy” có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.

Nhưng  sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội  Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople ( tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã ( Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054  giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học  và quyền bính, thì  danh xưng “Chính Thống” ( orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi  hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã. Sau này, Giáo Hội “Chính Thống” Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia,  Lithuania,  Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine…Vì thế,  ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là không có ai là  người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã.(Tây Phương)

a
Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ ( Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul  được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương.Cách nay 5 năm Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô 16 ( đã về hưu năm 2012) đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh  em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn “lôi kéo” tín đồ Chính Thống  Nga vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến cố mới xẩy ra trong năm qua (2016) là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thông Nga tại Mexico, nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ lịch sử này giữa hai vi lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố sau đó.Nhưng đây là một dấu chỉ tích cực giữa hai Giáo Hội anh  em.

Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương( The Greek Church and the Holy See=Rome)  nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh  em  này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng  đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong khi em ngài, Thánh Anrê (Andrew)  sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội KitôGiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy ( Apostolic succession).

Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây

1- về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là  Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople- đã  bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi  Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về  Đức Mẹ  Vô Nhiễm  Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố  với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

a
Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople khi đó là Athenagoras I năm 1966.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội  thì họ  dùng  nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

Chính vì Giáo Hội Chính Thống có đủ các bí tích hữu hiệu như Công Giáo, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu của Chính Thống nếu không tìm được nhà thờ Công Giáo hay linh mục Công giáo khi cần..

2-Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp  khi cử hành phung vụ  trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu thuộc  mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong đó có tiếng Viêt Nam.

3-Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ:  các Giáo Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại  được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (pernanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã ch đến nay.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế,  giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiệp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số 838).

a
Vì Chính Thống Giáo có đủ bảy bí tích hữu hiệu, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu ở  nhà thờ và các linh mục Chính Thống, nếu không tìm được nhà thờ và linh mục Công Giáo nơi mình cư ngụ.

II- Tin lành ( Protestantism) và những khác biệt với Công Giáo.

Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíáo đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli  và các nước Bắc Âu sau đó.Hiện nay có hàng chục ngàn giáo phái này ở Mỹ, hoạt động với nhiều danh xưng khác nhau, nhưng cùng ít nhiều có liên hệ đến nguồn gốc thệ phản ( protestantism)nói trên. Một đặc điểm của các giáo phải Tin Lành là họ không có hệ thống giáo quyền ( Hierachy) chung như Giáo Hội Công Giáo có hàng giáo phẩm tối cao từ trung ương Roma cho đến các giáo hội địa phương ở mỗi quốc gia.Các nhánh Tin Lành hầu như độc lập với nhau về quyền bính, nhân sự, tài chính  và phương thức hành đạo.

1-Ở góc độ thần học,

Những người chủ trương cải cách (reformations) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể,  Xức dầu thánh, chứng hôn).

Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị.Do đó, chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura).

a
Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ:

“không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21).

Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi sẽ ra vô ích.

Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng Kinh Thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và Kinh Thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác.Điển hình

Là bí tích hòa giải mà các giám mục và linh mục Công Giáo được phép tha tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Kito ( in persona Christi).

Lại nữa, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình  bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh thánh., Nhưng đó không phải là cử hành Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist) như trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương.. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là giảng kinh thánh  vì họ chỉ  tin có Kinh Thánh ( Sola Scriptura) mà thôi.

a
2-  Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo Hội Công Giáo.

Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được gọi  Ai dưới đất là Cha, là Thầy .”. anh  em Tin Lành  hiểu lời Chúa trong ngữ cảnh (context)  câu trên hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “ Cha” (Father, Père, Padre)!.

Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này,  Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha trong Chúa Kitô  vì đã sinh  ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).

Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu kinh thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô  kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ

của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.” (Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng  Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em “trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood)  và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành.

Sau hết, về mặt quyền  bình, các giáo phái Tin lành đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.

Chính vì không công nhận Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh Giáo Hội duy nhất của Chúa Kito nên đây là trở ngại lớn cho các nhánh Tin Lành muốn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo.

a
3- về bí tích:

Tất cả các nhóm Tin Lành và Anh Giáo đều không có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession)-  và quan trọng hơn nữa,  người sáng lập của họ là người thường ( Martin Luther, John Calvin..Henry XIII)  chứ không phải là chính Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đã lập Giáo Hội của Chúa trên Đá Tảng Phêrô.( Mt 16: 18-19)  và “ Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phê rô và các Giám mục hiệp thông với Ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nhìn nhận. ( x. LG. số 8). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh giáo  đều  không có chức linh mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.

Đa số các nhóm Tin Lành và Anh Giáo  chỉ có phép rửa ( Baptism) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) như nhóm Bahai Hullah,  thì không thành sự ( invalidly) . Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người dự  tòng.(catechumens). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi.

công giáo
Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo và Tin Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo hội đã theo đuổi và cầu nguyện  trong nhiều năm qua.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng đang không hiệp thông (communion) và hiệp nhất ( unity) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng  Tông đồ Phêrô, do Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Roma coi sóc  và lãnh đạo với sự cộng tác và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục Đoàn. (College of Bishops).

Ươc mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Ý cầu nguyện tháng Sáu của ĐTC Phanxicô: ‘Cầu cho các trang mạng xã hội’

Hôm thứ Ba 5/6, ĐTC Phanxicô đã phát hành một thông điệp video kèm theo ý cầu nguyện tháng Sáu: “Cầu cho các trang mạng xã hội được trở nên toàn diện và tôn trọng sự khác biệt của người khác”.

Trong ý cầu nguyện của mình trong tháng 6 năm 2018, ĐTC Phanxicô nói: “Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để các trang mạng xã hội có thể làm việc hướng tới sự toàn diện vốn tôn trọng người khác vì những khác biệt của họ”.

Điều này đã trở thành một thói quen thường lệ của ĐTC Phanxicô khi phát hành một thông điệp video nêu chi tiết ý cầu nguyện của mình cho mỗi tháng.

Dưới đây là nội dung Thông điệp của ĐTC Phanxicô:

Internet là một quà tặng từ Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm lớn lao.

Công nghệ truyền thông, những nhiệm vụ của nó, và các công cụ của nó đã dẫn đến việc mở rộng tầm kiến thức, mở rộng tầm nhìn, cho rất nhiều người.

Nó có thể cung cấp những khả năng vô hạn cho việc gặp gỡ và liên đới.

Chớ gì mạng lưới kỹ thuật số không trở thành một nơi của sự thù hận và bất hòa. Chớ gì nó trở thành một nơi cụ thể, một nơi giàu tình người.

Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để các trang mạng xã hội có thể làm việc hướng đến sự toàn diện vốn tôn trọng người khác vì những khác biệt của họ.

Mạng lưới Tông đồ Cầu nguyện Toàn cầu (Worldwide Prayer Network of the Apostleship of Prayer) của ĐTC Phanxicô đã triển khai sáng kiến “The Pope Video” nhằm hỗ trợ trong việc phổ biến rộng rãi ý cầu nguyện hàng tháng của Đức Thánh Cha liên quan đến những thách thức mà nhân loại hiện đang phải đối mặt.

Gia Đình Công Giáo Tân Tòng Ấn Tượng Nhất Việt Nam

Gia đình Công Giáo đạo gốc lâu năm có nhiều người con đi tu làm Linh mục và Tu sỹ đã rất là độc đáo và là chuyện rất dễ hiểu.
Gia Đình Công Giáo Tân Tòng Ấn Tượng Nhất Việt Nam
Gia Đình Công Giáo Tân Tòng Ấn Tượng Nhất Việt Nam

Ấy vậy mà có gia đình tân tòng, mới theo Đạo cũng độc đáo không kém, cũng bằng chị bằng em, thậm chí hơn nhiều chị nhiều em.

Gia đình đó đã gây ngỡ ngàng sửng sốt cho rất nhiều người.

Đó là gia đình Tân Linh mục Giuse M. Lê Văn Đông OCD, thuộc Giáo xứ Lang Minh- Giáo phận Xuân Lộc thuộc xã Lang Minh- huyện Xuân Lộc- Tỉnh Đồng Nai.

Vì gia đình đó tuy tân tòng, tuy mới theo Đạo nhưng lại quá ấn tượng là vì có:

Người con thứ nhất chính là Tân Linh mục Giuse M. Lê Văn Đông. Ngài vừa mới lãnh nhận chức Linh mục hôm 05/06/2018 tại Philippines. Thánh Lễ Tạ ơn của Ngài sẽ diễn ra lúc 9h Thứ Ba ngày 12.06.2018 tại Thánh đường Giáo xứ Lang Minh.

Người con thứ hai là một nữ tu dòng kín đã khấn trọn đời tại Fatima Bình Triệu, chính là sơ Anh Phương.

Người con thứ ba tên Huy đang là chủng sinh khóa XI Đại Chủng Viện Xuân Lộc

Người con thứ tư tên Hưng cũng là chủng sinh khóa XI Đại Chủng Viện Xuân Lộc.

Người con thứ năm đang là dự tu.

Cả nhà có 5 người con đều đi tu cả 5.

Thật quá sức tuyệt vời ! Thật quá sức tưởng tượng !

Việc Chúa làm, vượt quá trí tưởng tượng của con người.

Thật hiếm có, thật khó tìm.

Đó chính là gia đình ông bà cố Antôn Lê Văn Nam và Têrêsa Nguyễn Thị Hiển.

Gia đình đó là niềm ngưỡng mộ và khao khát cho biết bao gia đình Công giáo đạo gốc lâu năm.

Chúa không bao giờ phân biệt kẻ mới, người cũ.

Ngài không bao giờ thiên vị bất cứ ai, bất cứ gia đình nào.

Bất cứ ai thành tâm mở lòng ra đón nhận Ngài và thực hành Đức công chính thì sẽ được Ngài sẵn sàng dang tay đón nhận.

Ta hãy Tạ ơn Hồng Ân vô cùng dồi dào, hết sức ấn tượng và rất mực dịu ngọt của Chúa.

Biết lấy gì cảm mến, biết lấy chi báo đền hồng ân Chúa cao vời, Chúa đã làm cho con.

Thương con từ ngàn xưa, một tình yêu chan chứa. Và chọn con đi làm đuốc sáng chiếu soi trần gian.

Cho con say tình mến và này con xin đến. Một đời trung trinh làm muối đất ướp cho mặn đời.

Xin Chúc mừng Ông Bà cố và Tân Linh mục Fr Dong Le.

Nguyện xin Chúa chúc lành cho gia đình và chăm sóc nuôi dưỡng cho các con của Ông Bà cố đã và đang trên đường dâng hiến luôn thuộc trọn về Ngài.

Giuse Kích

Baoconggiao.net