Archive | March 2017

Tom Colucci, từ lính cứu hỏa trở thành Linh mục

Cuối năm 2016 vừa qua, Tổng giáo phận New York có một tân Linh mục đặc biệt, đó là cha Tom Colucci, 60 tuổi, nguyên là lính cứu hỏa của sở cứu hỏa thành phố New York trong 29 năm.
Tom Colucci, từ lính cứu hỏa trở thành Linh mục
Tom Colucci, từ lính cứu hỏa trở thành Linh mục
Tom Colucci luôn nhận thấy Thiên Chúa ở bên cạnh trong cuộc đời mình. Thiên Chúa ở bên Colucci khi anh rời đại học và trở thành một lính cứu hỏa vào năm 1985. Thiên Chúa ở bên khi Colucci trở thành đội trưởng. Colucci không lập gia đình; từ lâu anh ao ước trở thành Linh mục. Chính những cảnh tượng Colucci chứng kiến tại cuộc khủng bố tòa tháp đôi ở Trung tâm thương mại thế giới vào ngày 11/09/2011 đã đánh động lòng của Colucci và Colucci  hiểu rõ mình được gọi trở thành Linh mục. Colucci chia sẻ: “Ngày hôm đó tôi đã chứng kiến điều tồi tệ của nhân loại, nhưng cũng là điều tốt. Tất cả nói ‘Thiên Chúa ở đâu ngày hôm đó?’ Nhưng tôi đã thấy gương mặt Người nơi những người cứu hộ, nơi những người đang chạy để cứu giúp.”

Tai nạn xảy ra khi Colucci đang làm việc đã làm cho Colucci bị thương ở đầu và phải chịu 2 cuộc giải phẫu não. Năm 2005, Colucci đã giã từ đơn vị lính cứu hỏa và cuối cùng Colucci đã có thể gia nhập chủng viện. Khi được 60 tuổi, Colucci đã được lãnh chức Linh mục. Cha Colucci chia sẻ: “Chúa đã ban cho tôi ơn làm lính cứu hỏa và tôi đã làm tốt nhất tôi có thể. Giờ đây Người đang ban cho tôi ơn trở thành Linh mục, tôi sẽ làm điều tốt nhất tôi có.

Chuyện đời cha Colucci là một chuyện ngược dòng, một chứng tá mạnh mẽ và rõ ràng cách thế Thiên Chúa hiện diện ngay cả trong những giờ phút thảm kịch nhất của nhân loại.

Hồng Thủy, RadioVaticana
Aleteia.it

Đức Thánh Cha kêu gọi tìm giải pháp cho nạn tu sĩ bỏ dòng

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 28-1-2017, dành cho 100 tham dự viên khóa họp toàn thể của Bộ các dòng tu, ĐTC phân tích các nguyên nhân khiến nhiều tu sĩ bỏ dòng và ngài đề nghị một số phương dược chữa trị.
Đức Thánh Cha kêu gọi tìm giải pháp cho nạn tu sĩ bỏ dòng
Đức Thánh Cha kêu gọi tìm giải pháp cho nạn tu sĩ bỏ dòng

 Trong số các tham dự viên có hơn 20 Hồng Y, 16 GM và 8 LM là thành viên của bộ dòng tu. Khóa họp diễn ra dưới quyền chủ tọa của ĐHY Tổng trưởng João Braz de Aviz, người Brazil.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói đến sự kiện có tu sĩ rời bỏ dòng vì thấy mình không có ơn gọi, sau một thời gian phân định nghiêm túc, nhưng cũng có những người khác rời bỏ dòng vài năm sau khi khấn trọn đời. Điều gì xảy ra?

ĐTC phân tích những nguyên nhân gây nên ”sự xuất huyết” như thế làm suy yếu đời sống thánh hiến và chính Giáo Hội: ”Những vụ bỏ dòng làm cho chúng ta rất lo âu!”. Ngài nhắc đến trước tiên là thời đại thay đổi, với nền văn hóa ”từng mảnh” và tạm thời, đưa tới nhu cầu cần có ”những cửa bên hông” mở ra những khả thể khác.

Tiếp đến là thế giới người trẻ ngày nay, tuy có những người quảng đại, liên đới và dấn thân, nhưng cũng có nhiều người khác là nạn nhân của tinh thần thế tục, tìm kiếm thành công với bất kỳ giá nào, tìm kiếm tiền bạc và lạc thú dễ dàng. Ngoài ra có sự phản chứng nơi một số tu sĩ, vì cuộc sống ”đều đều theo thói quen” (routine), mệt mỏi, cơ cấu nặng nề, chia rẽ nội bộ, tìm kiếm quyền hành, sự thi hành quyền bính độc đoán, hoặc tháo thứ.

ĐTC đặc biệt kêu gọi chăm sóc đời sống huynh đệ cộng đoàn, cần được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện chung, nguyện gẫm Lời Chúa, tích cực tham dự thánh lễ và bí tích hòa giải, đối thoại huynh đệ và chân thành chia sẻ giữa các phần tử, sửa lỗi trong tinh thần huynh đệ, từ bi đối với anh chị em phạm lỗi, chia sẻ trách nhiệm. Tất cả những điều đó được đi kèm với chứng tá hùng hồn và vui tươi về một cuộc sống đơn sơ cạnh người nghèo, và một sứ vụ dành ưu tiên cho những ”miền ngoại ô của cuộc sống”.

ĐTC cũng nhấn mạnh đến nghĩa vụ chăm sóc và bảo tồn ơn gọi, đừng chiều theo những tiêu chuẩn trần tục, nhất là cần đề cao tầm quan trọng của sự đồng hành. Ngài nói:

”Chúng ta không bao giờ có thể nhấn mạnh cho đủ về sự cần thiết này. Thật là khó tiếp tục trung thành nếu ta chỉ tiến bước lẻ loi một mình, hoặc bước đi dưới sự hướng dẫn của các anh chị em không có khả năng lắng nghe hoặc kiên nhẫn, hay không có kinh nghiệm thích hợp về đời sống thánh hiến.”

ĐTC nói thêm rằng: ”Trong khi chúng ta phải tránh bất kỳ cách thức đồng hành tạo nên sự lệ thuộc, bảo bọc, kiểm soát, hoặc làm cho người khác trở nên như trẻ con; chúng ta không thể cam chịu sự tiến bước đơn độc, cần phải có một sự đồng hành gần gũi, thường xuyên và hoàn toàn trưởng thành. Tất cả những điều đó sẽ giúp đảm bảo một sự phân định liên tục đưa tới sự khám phá ý Thiên Chúa, tìm kiếm trong mọi sự những gì làm đẹp lòng Chúa hơn cả, như thánh Ignatio đã nói, hoặc với những lời của thánh Phanxicô Assisi, ”luôn luôn muốn những điều làm đẹp lòng Chúa” (Xc FF 233). (SD 28-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

TẠI SAO KIÊNG THỊT MÀ KHÔNG KIÊNG CÁ?

Trước hết, nên lưu ý tới việc sử dụng từ ngữ. Tiếng “ăn chay kiêng thịt” gợi lên cho chúng ta hai điều: một điều cấm (kiêng) và một điều khuyến khích. Điều cấm là kiêng thịt; điều khuyến khích là ăn chay. Chắc Chúng ta đã biết rằng ở Việt Nam có vài tôn giáo đã hiểu như vậy: ăn chay có nghĩa là ăn đồ chay, những đồ lạt, không mặn. Còn đối với Kitô giáo, ăn chay có nghĩa là kiêng ăn. Như thế, ngoài chuyện kiêng thịt lại còn thêm chuyện kiêng ăn nữa.

Vì vậy nếu muốn diễn tả cho đúng tư tưởng thì thay vì nói “ăn chay kiêng thịt”, chúng ta phải nói “kiêng ăn kiêng thịt” hoặc là “chay ăn chay thịt”! Nếu đặt lại vấn đề như vậy thì câu hỏi “tại sao phải kiêng thịt” đã được giải quyết một phần rồi, nghĩa là chúng ta kiêng thịt không phải tại vì thịt nó xấu xa, cũng như chúng ta kiêng ăn không phải tại vì sự ăn uống xấu xa: sự ăn uống cần thiết cho sự sống; nếu ai tuyệt thực hoàn toàn thì sẽ sớm qua bên kia thế giới.

Chúng ta kiêng thịt không phải vì nó xấu; thế thì tại sao lại chỉ kiêng thịt mà không kiêng luôn cả cá nữa?

Vấn đề kiêng thịt không phải là cái gì riêng của Kitô giáo. Nó đã có một truyền thống lâu đời ở các tôn giáo trên thế giới, tuy với những lý do và động lực khác nhau. Chẳng hạn như các tín đồ Phật giáo kiêng thịt bởi vì họ tin vào thuyết luân hồi: khi giết các súc vật, biết đâu ta đã giết chính ông bà của mình bị phạt đầu thai làm kiếp súc vật. Dĩ nhiên, Kitô giáo đã đặt ra kỷ luật kiêng thịt không phải tại vì tin theo thuyết luân hồi nhưng dựa theo một động lực khác. Trong Cựu ước, ta đã thấy có những luật về kiêng thịt với những chi tiết khá phức tạp, thí dụ trong chương 11 của sách Lê vi, phân biệt những thú vật ô uế với vật tinh tuyền.

Tại sao lại có sự phân biệt giữa các thú vật tinh tuyền với thú vật ô uế?

Các nhà chú giải Kinh thánh không trả lời được. Có lẽ tác giả của sách Lêvi đã lấy lại một tập tục có từ xa xưa mà không còn ai nhớ rõ gốc gác. Cho dù lý do phân loại thế nào đi chăng nữa, đến khi bước sang Tân ước, ta thấy có những cuộc cách mạng quan trọng. Chúa Giêsu đã xóa bỏ sự phân biệt giữa các vật tinh tuyền và vật ô uế. Sự tinh tuyền và ô uế nằm ở trong lòng của mình chứ thú vật chẳng có tội tình chi cả (Mc 7,15). Tuy nhiên, xem ra các Kitô hữu tiên khởi (phần lớn gốc Do thái) không thể thay đổi não trạng nhanh chóng, thí dụ như ở chương 10 của sách Tông đồ công vụ, ta thấy thánh Phêrô còn sợ chưa dám ăn một vài thứ chim trời đã bị xếp vào hàng ô uế; lật qua chương 15 (câu 20 và 29) ta còn thấy thánh Giacôbê muốn đòi buộc các tín hữu tân tòng phải kiêng tránh vài thức ăn. Nhưng thánh Phaolô đi mạnh mẽ hơn, nhất là vì ngài để ý tới dân ngoại hơn là tới dân Do thái.

Thực vậy, thánh Phaolô chấp nhận hoàn toàn giáo lý của đức Kitô, theo đó chẳng có lương thực nào là ô uế hết. Nhưng có một vấn đề được đặt ra là có được ăn đồ cúng hay không? Trong thư gửi Rôma 14,14-16 thánh Phaolô đã phân biệt như thế này: tự nó, đồ cúng hay đồ không cúng chẳng có gì khác nhau, cho nên các tín hữu không phải kiêng cữ. Tuy nhiên, nếu có người non nớt bị vấp phạm vì việc người tín hữu ăn đồ cúng, thì mình phải tránh. Nói khác đi, mình kiêng ăn đồ cúng không phải tại vì nó là đồ ô uế nhưng mà mình phải tránh gây gương xấu cho người anh em mình; đây là một bổn phận thuộc giới răn bác ái yêu thương.

Như vậy, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta cứ tha hồ ăn uống, phải không?

Thánh Phaolô không bao giờ xúi các tín hữu ăn uống say sưa; trái lại, ngài đã hơn một lần khiển trách những người lấy cái bụng làm chúa. Thánh Phaolô chỉ muốn huấn luyện lương tâm của các tín hữu, hãy tìm hiểu cái lý do của các luật lệ, chứ không phải chỉ giữ luật lệ cách máy móc. Tất cả các lương thực đều tốt bởi vì do Chúa dựng nên cho con người. Chúng ta hãy hưởng dụng để ngợi khen Ngài. Việc ăn uống có thể trở thành cơ hội để chúc tụng tạ ơn Chúa như chúng ta đọc thấy ở thư gửi Rôma 14,6. Tuy nhiên, cần có chừng mực.

Hơn thế nữa, thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu hãy tiến thêm một bước nữa, biết hy sinh cả những cái gì được phép làm: việc kiêng cữ những điều tốt nằm trong chương trình thao luyện tinh thần giống như các lực sĩ tập luyện ở thao trường (1Cr 9,27), nhất là để hoạ theo gương của đức Kitô chịu thụ nạn trên thập giá vì yêu thương chúng ta.

Nhưng nếu đã muốn kiêng khem lương thực thì kiêng hết các món, chứ sao lại chỉ kiêng thịt?

Như tôi đã nói ở đầu, trong Việt ngữ, vì đã quá quen với thành ngữ “ăn chay kiêng thịt” cho nên chúng ta chỉ giới hạn sự kiêng vào chuyện ăn thịt. Vấn đề kiêng cữ bao hàm việc kiềm chế hết những gì đem lại thỏa mãn thích thú, nhằm giúp cho ý chí chế ngự được bản năng. Theo một vài sử gia, trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội phải mệt với những phe khắc khổ hơn là với phe phóng túng. Phe khắc khổ đòi Giáo hội phải ra luật buộc tất cả các tín hữu phải giữ chay.

Nhưng mà Giáo hội đâu có thể bắt hết mọi người phải trở thành nhà khổ tu được. Mặt khác, trong số các vị khổ tu thời đó, không thiếu những người chịu ảnh hưởng của thuyết ngộ giáo, coi xác thịt và hôn nhân là tội lỗi. Dù sao, việc khổ chế vào những thế kỷ đầu hoàn toàn mang tính cách tự nguyện. Nếu có luật lệ thì cũng chỉ giới hạn cho từng địa phương chứ không bao trùm toàn thể Giáo hội. Việc kiêng khem tuyệt đối thường được dành cho ngày thứ 6 tuần thánh, rồi dần dần kéo dài ra các ngày thứ 6 hằng tuần. Nhưng mà dần dần kỷ luật kiêng khem tuyệt đối (chay ăn) được gia giảm bởi vì nhiều tín hữu phải làm việc lao động nặng nhọc, cần ăn uống để lấy sức. Mức độ châm chế được thay đổi tùy vùng tùy nơi. Bên Trung đông, người ta kiêng cả sữa, bơ, trứng; nhưng mà bên Tây phương, người ta chỉ đòi kiêng thịt.

Từ thời Trung cổ, sự khổ chế tự nguyện biến thành khổ chế bắt buộc, nghĩa là trở thành luật buộc. Ngoài ra việc chay tịnh cũng là một hình phạt đền tội dành cho những hối nhân. Việc soạn thảo một bản văn pháp lý đòi hỏi phải xác định tỉ mỉ các chi tiết của nghĩa vụ. Hậu quả là người ta trở lại với não trạng của các luật sĩ vào thời Chúa Giêsu, với đủ thứ vấn nạn được nêu lên: luật kiêng thịt buộc phải kiêng những thứ gì? Có phải kiêng mỡ heo, kiêng sữa bò, tiết canh hay không? Các giống động vật nào phải kiêng: máu nóng hay máu lạnh? thú vật trên bộ hay là dưới nước? Ngan, ngỗng, vịt, lươn, rùa, sò ốc nhái có phải kiêng không? Các chuyên gia về luân lý tha hồ mà nghiên cứu tranh luận về các loại thịt. Tiếc rằng người ta đã mất đi cái động lực của nó là tinh thần khổ chế lúc đầu. Vì thế có cảnh ngược đời là có người mong tới ngày thứ 6 để có dịp đi ăn ở nhà hàng thủy sản thập cẩm. Đối lại là cái cảnh chảy nước mắt của bao dân nghèo phải chi tiền nhiều hơn vào ngày thứ 6, khi mà cá mắc hơn thịt.

Giáo luật ngày nay vẫn giữ nguyên tình trạng như vậy chứ?

Bộ giáo luật hiện hành vẫn còn duy trì luật kiêng thịt, tuy nhiên với một tinh thần mới của công đồng Vaticanô II mà đức Phaolô VI đã muốn tiêm nhiễm với tông hiến Poenitemini (17/2/1966). Tinh thần đó có thể tóm lại 3 điểm sau: Tiên vàn là phải kiêng những gì xấu xa, tức là kiêng phạm tội; nói khác đi việc chay ăn chay thịt phải được lồng trong tinh thần thống hối cải hoán.

Ngoài sự kiêng cái xấu, chúng ta hãy gắng tiến thêm một bước để kiêng cả cái tốt: sự kiêng cái tốt cũng nằm trong tinh thần đền tội và tu đức, để tập kiềm chế những đòi hỏi của bản năng dục vọng. Dưới khía cạnh này, lãnh vực kiêng khem rất là rộng: từ kiêng ăn uống cho tới kiêng thuốc lá, tivi, các thứ tiêu khiển giải trí, các thứ tiêu pha hoang phí. Bước thứ ba nữa là ngoài tính cách tiêu cực (kiêng lánh) cần thêm tính cách tích cực: nhịn ăn nhịn mặc để lấy tiền giúp đỡ người nghèo, tỏ tình tương trợ với người thiếu ăn thiếu mặc. Đó là cái động lực của việc kiêng khem. Các Hội đồng Giám mục sẽ tùy theo hoàn cảnh của mỗi địa phương mà đề ra những hình thái cụ thể trong việc áp dụng luật ăn chay kiêng thịt chiếu theo đ.1251 và 1253 của bộ giáo luật.

Lm. Phan Tấn Thành, O.P.
DaMinhvn

Tại sao người Công Giáo chỉ ăn chay có 2 ngày và khi kiêng thịt thì lại cho ăn những món ăn khác như tôm, cua, cá

Hỏi:

Tại sao người Công Giáo chỉ ăn chay có 2 ngày và khi kiêng thịt thì lại cho ăn những món ăn khác như tôm, cua, cá… đôi khi còn ngon và đắt tiền hơn thịt nữa, trong khi các đạo khác ăn chay khắc khổ hơn. Thực hành việc ăn chay phải như thế nào mới đúng. Con xin cám ơn cha.

Giải đáp 

Việc ăn chay và kiêng cữ thường đi chung với nhau nhưng là hai việc khác nhau.

Ăn chay vốn là một từ bên Phật Giáo và đã được cha Alexandre de Rhodes giảng trong Từ điển Annam-Bồ Đào Nha – Latinh như sau : Ăn chay. Đích thực có nghĩa là kiêng thịt và cá, nhưng bây giờ để chỉ sự ăn chay của những Kitô hữu. Ăn chay (jejunium) có nghĩa là giới hạn lượng lương thực được ăn vào những ngày cụ thể. Còn kiêng cữ (abstinentia) có nghĩa là từ bỏ một thức ăn khoái khẩu như thịt, cá, tôm…

Ăn chay là việc thực hành phổ biến của hầu hết các tôn giáo. Tuy nhiên, mục đích của việc ăn chay lại không giống nhau. Đối với những tu sĩ Phật Giáo hay nhiều Phật tử có thói quen ăn chay trường là cữ sát sinh không dùng những thức ăn có nguồn gốc từđộng vật hoặc không có sự giết chóc động vật trong quá trình chế biến vì lòng từ bi đối với tất cả mọi loài chúng sinh. Trong khi đó người Công Giáo ăn chay để biểu lộ lòng sám hối, ăn năn, tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì thế mà việc ăn chay hai bên khác nhau nên không thể so sánh vì không cùng mục đích.

Đối với Kitô giáo, ban đầu đó là một việc làm tự nguyện của giáo dân lâu dần mới thành thói quen trong Hội Thánh. Sau đó ăn chay trở thành luật buộc. Việc ăn chay được ấn định cho suốt Mùa Chay. Từ Thế Kỷ V đến Thế Kỷ IX, ngoại trừ ngày Chúa Nhật, mùa này chỉ được dùng một bữa ăn, thường là bữa tối. Không được có thịt, cá trong bữa ăn và có nơi còn cấm cả trứng cũng như các sản phẩm từ sữa. Đầu Thế Kỷ X, bữa này chuyển về buổi trưa. Khoảng Thế Kỷ XIV, buổi tối có thể dùng một bữa ăn nhẹ. Đến thời Trung Cổ thì bãi bỏ luật cấm ăn cá và các sản phẩm từ sữa như bơ, phó mát… 

Theo Giáo Luật 1917 thời đó chỉ được dùng một bữa chính ăn no trong các ngày mùa Chay trừ Chúa Nhật và hai bữa ăn khác không có thịt và cũng không ăn nhiều như các bữa ăn thông thường. Các ngày kiêng thịt là các ngày thứ sáu quanh năm còn trong mùa Chay thêm ngày thứ Bẩy (x. Giáo Luật cũ 1250 – 1254).

Luật kiêng cữ nghiêm nhặt vẫn được tuân giữ cho tới ngày 17 tháng 2 năm 1966. Với Tông Hiến Poetemini của Đức Giáo Hoàng Paul VI đã có sự thay đổi về việc ăn chay và kiêng thịt.

 

Ngày nay, việc ăn chay và đã được giảm bớt đi chỉ còn 2 ngày là Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh theo qui định của Giáo Luật điều 1251 như sau :

 

Phải kiêng thịt, hay kiêng của ăn nào khác theo qui định của Hội Đồng Giám Mục, các ngày thứ sáu trong năm, trừ khi những ngày ấy trùng với một ngày nào khác trong số những ngày lễ trọng; còn luật kiêng thịt và ăn chay thì phải giữ ngày Lễ Tro và ngày thứ Sáu kính cuộc Khổ Nạn và sự chết của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta.

Bạn có hỏi tại sao ăn chay ít thế chỉ có hai ngày một năm ? Đọc lại lịch sử chắc bạn cũng thấy rằng đã có thời gian việc ăn chay khá nhiệm nhặt. Ăn chay suốt mùa Chay vào thời kỳ mà lương thực không lấy gì làm sung túc lắm. Tuy nhiên, nếu ăn chay trở thành một sự áp đặt cứng ngắt thì cũng tạo ra một sự tuân thủ miễn cưỡng và giả tạo. Đôi khi còn dẫn đến hình thức luồn lách để tránh né thí dụ như như luật không qui định thời gian của bữa ăn nên người ta có thể kéo dài một bữa ăn vài giờ đồng hồ.

Chắc bạn cũng từng gặp trường hợp có những người ăn chay đã phải thức chờ sau 12 giờ đêm ngày thứ Tư lễ tro để ăn cho đỡ đói. Việc ăn chay hẳn không phải lúc nào cũng dễ dàng với nhiều người. Vậy thì việc qui định bắt buộc chỉ còn 2 ngày cho thấy Giáo Hội giảm đi việc bó buộc nhưng vẫn cho bạn được tự do ăn chay thêm vào những ngày bạn muốn hãm mình để giúp bạn làm chủ các bản năng và tiến tới sự tự do nội tâm, diễn tả lòng thống hối và hiệp thông với cuộcTử Nạn của Chúa. Nếu thấy ít, bạn vẫn có thể tự nguyện ăn chay nhiều hơn. Đâu có ai cấm bạn ! Miễn là đừng làm hại sức khoẻ thôi. Đó chính là việc ăn chay tự nguyện như đã được thực hiện thuở ban đầu của Hội Thánh khi chưa có luật buộc.

Về việc kiêng thịt

Điều 1251: Phải kiêng thịt, hay kiêng của ăn nào khác theo qui định của Hội Đồng Giám Mục, các ngày thứ sáu trong năm, trừ khi những ngày ấy trùng với một ngày nào khác trong số những ngày lễ trọng…

 

Điều 1252: Ai đã trọn 14 tuổi buộc phải giữ luật kiêng thịt; còn luật ăn chay buộc tất cả những người thành niên cho đến khi bắt đầu 60 tuổi. Tuy nhiên, các vị Chủ chăn và cha mẹ phải lo sao để cả những người vị thành niên không buộc ăn chay kiêng thịt cũng được thấm nhuần tinh thần sám hối đích thực.

 

Điều 1253: Hội đồng Giám mục có thể ấn định rõ hơn luật giữ chay và kiêng thịt, cũng như có thể thay thế toàn phần hay một phần việc kiêng thịt và ăn chay bằng những hình thức sám hối khác, nhất là bằng những việc bác ái và việc đạo đức.

Như vậy mục đích của việc kiêng thịt hay kiêng một thức ăn nào khác là một sự hãm mình, từ bỏ bản thân trong ngày sám hối chung của toàn thể Giáo Hội là ngày thứ sáu. Cho nên điều quan trọng là thấm nhuần tinh thần sám hối như được nói đến trong điều 1252 chứ không chỉ tuân thủ một qui định thuần tuý luật lệ.

Giáo Luật cũng đã đề cập đến việc kiêng một thức ăn khác cũng như có thể được thay thế bằng những việc bác ái và đạo đức theo quyết định của Hội Đồng Giám Mục ( điều 1253). Vì vậy mà có nơi không nói đến kiêng thịt nữa nhưng không vì thế mà không cần nghĩ đến sám hối và làm các việc đạo đức, bác ái… Và như đã bạn thắc mắc kiêng thịt mà lại tìm những món ăn ngon hơn như tôm, cua… mà ăn thì còn đâu là ý nghĩa của ngày thống hối chung và ăn kiêng như thế cũng coi như chưa kiêng gì cả !

Tóm lại

TUỔI GIỮ CHAY: Từ 18 tuổi trọn đến hết 59 tuổi.

TUỔI KIÊNG THỊT: Từ 14 tuổi trở lên

CÁCH GIỮ CHAY: Trong ngày chay chỉ được ăn một bữa no(chọn bữa nào cũng được), còn những bữa khác chỉ được ăn chút ít để bụng còn đói. Trong ngày chay không được ăn vặt như kẹo, bánh v.v

CÁCH KIÊNG THỊT: Cấm ăn thịt loài máu nóng (heo, bò, gà, vịt…) bao gồm thịt và tất cả những thứ khác như tim, gan, lòng chay…. Nhưng được dùng các nước thịt và các đồ ăn có pha chất thịt, như cháo nước thịt. Được ăn cá và loài máu lạnh (như ếch, rùa, sò, cua, tôm). Ngày kiêng thịt cũng được phép dùng trứng và các sản phẩm từ sữa như bơ và phó mát …

 

NGÀY BUỘC GIỮ CHAY VÀ KIÊNG THỊT : Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh

CuuThe

Tại sao các thiếu nhi Công Giáo ở độ tuổi 10 lại bỏ đạo – và các bậc phụ huynh có thể làm gì?

Tiến sĩ Mark Gray, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung Tâm Nghiên Cứu Ứng Dụng Tông Đồ ( viết tắt là CARA) tại Đại Học Georgetown cho hay tuổi trẻ Công Giáo hiện nay đang bỏ đạo ngay vào tuổi thiếu niên, độ tuổi 10 và lý do không phải vì sự buồn chán trong thánh lễ, nhưng vì những lý do sâu xa hơn. Đa số các em cho mình là vô thần hay không tin và muốn mọi việc phải mang tính khoa học, nghĩa là cần bằng chứng cụ thể.”
Tại sao các thiếu nhi Công Giáo ở độ tuổi 10 lại bỏ đạo – và các bậc phụ huynh có thể làm gì
Tại sao các thiếu nhi Công Giáo ở độ tuổi 10 lại bỏ đạo – và các bậc phụ huynh có thể làm gì
Gray nói với EWTN rằng “Đây là một cuộc khủng hoảng về đức tin. Những thế hệ trước đây, không hề có việc phải đối mặt với vấn đề đức tin như hiện nay ở thời đại chúng ta.”

Gray vừa mới cho xuất bản kết quả hai cuộc nghiên cứu của CARA , trong đó tiến hành nghiêu cứu khoa học xã hội về Giáo Hội có đăng trong tờ Our Sunday Visitor (tạm dịch là Khách thăm Chúa Nhật). Một nghiên cứu được thực hiện với những con em gia đình Công Giáo nhưng đã không còn cho mình là Công Giáo nữa có độ tuổi từ 15 đến 25. Cuộc nghiên cứu thứ hai được thực hiện với những người tự cho là Công Giáo, có độ tuổi từ 18 trở lên.

Những người trẻ bỏ đạo nói rằng đức tin “ không phù hợp với những gì họ học được ở trường học, cả ở cấp phổ thông và đại học”. Đối với tuổi trẻ thì trong trận chiến nhận thức giữa Giáo Hội Công Giáo và Khoa học, Giáo Hội đang mất dần. Giáo Hội mất dần ở các thiếu niên. Những cuộc phỏng vấn các thanh thiếu niên và các người trưởng thành bỏ đạo cho thấy rằng đa số người ta bỏ đạo vào lứa tuổi 13.

Gray viết rằng “Gần hai phần ba những người được phỏng vấn, khoảng 63 phần trăm nói là họ bỏ đạo vào độ tuổi 10 và 17. Còn 23 phần trăm khác nói là họ bỏ đạo trước khi lên tuổi 10.” Cũng theo Gray thì trong số những người đã bỏ đạo, “chỉ có 13 phần trăm là có thể trở lại. Nếu không có những thay đổi lớn trong cuộc đời của họ thì dường như họ sẽ không trở lại.”

Lý do họ bỏ đạo là, một trong năm người trả lời, họ không còn tin vào Thiên Chúa hay tôn giáo nữa. Đây là bằng chứng về “sự mong muốn có những chứng cớ về những gì họ học về tôn giáo hay về Thiên Chúa”.

Đây là xu hướng trong nền văn hóa hiện nay, coi chủ nghĩa vô thần là “ thông minh” và coi đức tin như là “chuyện hoang đường.”

Vì thế Giáo Hội cần đặt thành vấn đề trong nền văn hóa hiện nay và Giáo Hội cần lưu tâm nhiều hơn về lịch sự của mình cùng sự liên hệ với khoa học.

Tuổi trẻ Công Giáo chỉ đến nhà thờ một lần vào Chúa Nhật để nghe về đức tin trong khi cả tuần lại được học về đức tin như là một sự “ngờ nghệch.

Nếu học sinh được dạy về thuyết tiến hóa hay thuyết Big Bang (truyền hình Mỹ tạm dịch Vụ Nổ Lớn) tại cùng một trường họ học về tôn giáo và được dạy bởi các thày cô cũng có niềm tin tôn giáo thì “dĩ nhiên là không có sự xung khắc gì và các em hiểu được Giáo Hội và lịch sử Giáo Hội và sự liên hệ giữa đức tin và khoa học.”

Các thế hệ trước đây thì cả hai môn đức tin và khoa học đều có trong giáo trình và nền giáo dục đó giúp chúng ta giải quyết những vấn nạn về đức tin này và hẳn nhiên khoa học và tôn giáo đi đôi với nhau.

Cha Matthew Schneider, LC, làm mục vụ cho giới trẻ nhấn mạnh rằng chúng ta phải cho giới trẻ hiểu được là đức tin và khoa học luôn hài hòa với nhau. Đức tin và khoa học liên quan với nhau qua triết học và thần học. Trong khi khoa học hướng về những “gì có thể quan sát và đo đếm được”, thì “thế giới cần một cái gì đó phi vật chất là nguồn gốc của nó và đó là cách để hiểu Thiên Chúa cùng với khoa học. Chính đức tin Kitô giáo là nơi sinh ra khoa học. Không có sự đối chọi giữa đức tin và khoa học , cũng cần nên hiểu mỗi thứ theo lãnh vực riêng của nó.

Các bậc phụ huynh có thể làm gì để giúp con mình vững mạnh trong đức tin? Cha Schneide đưa ra nghiên cứu của Christian Smith, một Giáo Sư xã hội học, tại Đại Học Notre Dame, đã tổng hợp ba yếu tố giúp tới 80 phần trăm giới trẻ duy trì đức tin. Đó là:

Nếu trong giáo xứ, chúng ta có sinh hoạt hằng tuần như là học giáo lý, học Kinh Thánh, sinh hoạt thanh thiếu niên; Nếu chúng ta có những người lớn, nhưng không phải là phụ huynh, nói với các em về đức tin; và nếu chúng ta có những “cảm nghiệm sâu xa về thần khí Chúa” thì con em của chúng ta đa phần sẽ giữ vững được đức tin.

Phụ huynh nên biết về niềm tin của con cái mình bởi vì có nhiều phụ huynh không hề biết là con mình đã bỏ đạo từ lâu rồi.

Giáo Hội mở rộng với khoa học, có sự hợp tác giữa các nhà khoa học không Công Giáo và Giáo Hoàng Học Viện Khoa học, gồm cả nhà vật lý Stephen Hawking.

Không có sự xung khắc thực sự giữa đức tin và khoa học. Ngay từ thời Thánh Augustino vào thế kỷ thứ năm, Giáo Hội đã đứng vững giữa vấn đề đức tin và lý luận.

Giáo Hội rộng tay ôm giữ các thanh thiếu niên Công Giáo và đang làm nhiều hơn để chấn chỉnh lại những huyền thoại về lịch sử Giáo Hội trong lãnh vực khoa học. Giáo Hội tiếp tục hỗ trợ khoa học vì hầu như phần lớn các sản phẩn ban đầu của khoa học từ hằng trăm năm trước đều được thực hiện bởi các trường đại học Công Giáo.”

Giuse Thẩm Nguyễn, VCN / EWTN News/CAN

Tại sao kiêng thịt mà không kiêng cá?

Luật Giáo hội buộc tín hữu phải ăn chay kiêng thịt. Nhưng mà tại sao phải kiêng thịt ? Tại sao phải kiêng thịt mà không kiêng cá, kiêng trứng hay kiêng trái cây ? Ăn thịt có gì xấu không ?

tai-sao-kieng-thit-ma-khong-kieng-ca

Trước hết, nên lưu ý tới việc sử dụng từ ngữ. Tiếng “ăn chay kiêng thịt” gợi lên cho chúng ta hai điều: một điều cấm (kiêng) và một điều khuyến khích. Điều cấm là kiêng thịt; điều khuyến khích là ăn chay. Chắc chị đã biết rằng ở Việt Nam có vài tôn giáo đã hiểu như vậy: ăn chay có nghĩa là ăn đồ chay, những đồ lạt, không mặn. Còn đối với Kitô giáo, ăn chay có nghĩa là kiêng ăn. Như thế, ngoài chuyện kiêng thịt lại còn thêm chuyện kiêng ăn nữa. Vì vậy nếu muốn diễn tả cho đúng tư tưởng thì thay vì nói “ăn chay kiêng thịt”, chúng ta phải nói “kiêng ăn kiêng thịt” hoặc là “chay ăn chay thịt”! Nếu đặt lại vấn đề như vậy thì câu hỏi “tại sao phải kiêng thịt” đã được giải quyết một phần rồi, nghĩa là chúng ta kiêng thịt không phải tại vì thịt nó xấu xa, cũng như chúng ta kiêng ăn không phải tại vì sự ăn uống xấu xa: sự ăn uống cần thiết cho sự sống; nếu ai tuyệt thực hoàn toàn thì sẽ sớm qua bên kia thế giới.

Chúng ta kiêng thịt không phải vì nó xấu; thế thì tại sao lại chỉ kiêng thịt mà không kiêng luôn cả cá nữa ?

Vấn đề kiêng thịt không phải là cái gì riêng của Kitô giáo. Nó đã có một truyền thống lâu đời ở các tôn giáo trên thế giới, tuy với những lý do và động lực khác nhau. Chẳng hạn như các tín đồ Phật giáo kiêng thịt bởi vì họ tin vào thuyết luân hồi: khi giết các súc vật, biết đâu ta đã giết chính ông bà của mình bị phạt đầu thai làm kiếp súc vật. Dĩ nhiên, Kitô giáo đã đặt ra kỷ luật kiêng thịt không phải tại vì tin theo thuyết luân hồi nhưng dựa theo một động lực khác. Trong Cựu ước, ta đã thấy có những luật về kiêng thịt với những chi tiết khá phức tạp, thí dụ trong chương 11 của sách Lê vi, phân biệt những thú vật ô uế với vật tinh tuyền.

Tại sao lại có sự phân biệt giữa các thú vật tinh tuyền với thú vật ô uế ?

Các nhà chú giải Kinh thánh không trả lời được. Có lẽ tác giả của sách Lêvi đã lấy lại một tập tục có từ xa xưa mà không còn ai nhớ rõ gốc gác. Cho dù lý do phân loại thế nào đi chăng nữa, đến khi bước sang Tân ước, ta thấy có những cuộc cách mạng quan trọng. Chúa Giêsu đã xóa bỏ sự phân biệt giữa các vật tinh tuyền và vật ô uế. Sự tinh tuyền và ô uế nằm ở trong lòng của mình chứ thú vật chẳng có tội tình chi cả (Mc 7,15). Tuy nhiên, xem ra các Kitô hữu tiên khởi (phần lớn gốc Do thái) không thể thay đổi não trạng nhanh chóng, thí dụ như ở chương 10 của sách Tông đồ công vụ, ta thấy thánh Phêrô còn sợ chưa dám ăn một vài thứ chim trời đã bị xếp vào hàng ô uế; lật qua chương 15 (câu 20 và 29) ta còn thấy thánh Giacôbê muốn đòi buộc các tín hữu tân tòng phải kiêng tránh vài thức ăn. Nhưng thánh Phaolô đi mạnh mẽ hơn, nhất là vì ngài để ý tới dân ngoại hơn là tới dân Do thái. Thực vậy, thánh Phaolô chấp nhận hoàn toàn giáo lý của đức Kitô, theo đó chẳng có lương thực nào là ô uế hết. Nhưng có một vấn đề được đặt ra là có được ăn đồ cúng hay không? Trong thư gửi Rôma 14,14-16 thánh Phaolô đã phân biệt như thế này: tự nó, đồ cúng hay đồ không cúng chẳng có gì khác nhau, cho nên các tín hữu không phải kiêng cữ. Tuy nhiên, nếu có người non nớt bị vấp phạm vì việc người tín hữu ăn đồ cúng, thì mình phải tránh. Nói khác đi, mình kiêng ăn đồ cúng không phải tại vì nó là đồ ô uế nhưng mà mình phải tránh gây gương xấu cho người anh em mình; đây là một bổn phận thuộc giới răn bác ái yêu thương.

Như vậy, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta cứ tha hồ ăn uống, phải không ?

Thánh Phaolô không bao giờ xúi các tín hữu ăn uống say sưa; trái lại, ngài đã hơn một lần khiển trách những người lấy cái bụng làm chúa. Thánh Phaolô chỉ muốn huấn luyện lương tâm của các tín hữu, hãy tìm hiểu cái lý do của các luật lệ, chứ không phải chỉ giữ luật lệ cách máy móc. Tất cả các lương thực đều tốt bởi vì do Chúa dựng nên cho con người. Chúng ta hãy hưởng dụng để ngợi khen Ngài. Việc ăn uống có thể trở thành cơ hội để chúc tụng tạ ơn Chúa như chúng ta đọc thấy ở thư gửi Rôma 14,6. Tuy nhiên, cần có chừng mực. Hơn thế nữa, thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu hãy tiến thêm một bước nữa, biết hy sinh cả những cái gì được phép làm: việc kiêng cữ những điều tốt nằm trong chương trình thao luyện tinh thần giống như các lực sĩ tập luyện ở thao trường (1Cr 9,27), nhất là để hoạ theo gương của đức Kitô chịu thụ nạn trên thập giá vì yêu thương chúng ta.

Nhưng nếu đã muốn kiêng khem lương thực thì kiêng hết các món, chứ sao lại chỉ kiêng thịt ?

Như tôi đã nói ở đầu, trong Việt ngữ, vì đã quá quen với thành ngữ “ăn chay kiêng thịt” cho nên chúng ta chỉ giới hạn sự kiêng vào chuyện ăn thịt. Vấn đề kiêng cữ bao hàm việc kiềm chế hết những gì đem lại thỏa mãn thích thú, nhằm giúp cho ý chí chế ngự được bản năng. Theo một vài sử gia, trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội phải mệt với những phe khắc khổ hơn là với phe phóng túng. Phe khắc khổ đòi Giáo hội phải ra luật buộc tất cả các tín hữu phải giữ chay. Nhưng mà Giáo hội đâu có thể bắt hết mọi người phải trở thành nhà khổ tu được. Mặt khác, trong số các vị khổ tu thời đó, không thiếu những người chịu ảnh hưởng của thuyết ngộ giáo, coi xác thịt và hôn nhân là tội lỗi. Dù sao, việc khổ chế vào những thế kỷ đầu hoàn toàn mang tính cách tự nguyện. Nếu có luật lệ thì cũng chỉ giới hạn cho từng địa phương chứ không bao trùm toàn thể Giáo hội. Việc kiêng khem tuyệt đối thường được dành cho ngày thứ 6 tuần thánh, rồi dần dần kéo dài ra các ngày thứ 6 hằng tuần. Nhưng mà dần dần kỷ luật kiêng khem tuyệt đối (chay ăn) được gia giảm bởi vì nhiều tín hữu phải làm việc lao động nặng nhọc, cần ăn uống để lấy sức. Mức độ châm chế được thay đổi tùy vùng tùy nơi. Bên Trung đông, người ta kiêng cả sữa, bơ, trứng; nhưng mà bên Tây phương, người ta chỉ đòi kiêng thịt. Từ thời Trung cổ, sự khổ chế tự nguyện biến thành khổ chế bắt buộc, nghĩa là trở thành luật buộc. Ngoài ra việc chay tịnh cũng là một hình phạt đền tội dành cho những hối nhân. Việc soạn thảo một bản văn pháp lý đòi hỏi phải xác định tỉ mỉ các chi tiết của nghĩa vụ. Hậu quả là người ta trở lại với não trạng của các luật sĩ vào thời Chúa Giêsu, với đủ thứ vấn nạn được nêu lên: luật kiêng thịt buộc phải kiêng những thứ gì? Có phải kiêng mỡ heo, kiêng sữa bò, tiết canh hay không? Các giống động vật nào phải kiêng: máu nóng hay máu lạnh? thú vật trên bộ hay là dưới nước? Ngan, ngỗng, vịt, lươn, rùa, sò ốc nhái có phải kiêng không? Các chuyên gia về luân lý tha hồ mà nghiên cứu tranh luận về các loại thịt. Tiếc rằng người ta đã mất đi cái động lực của nó là tinh thần khổ chế lúc đầu. Vì thế có cảnh ngược đời là có người mong tới ngày thứ 6 để có dịp đi ăn ở nhà hàng thủy sản thập cẩm. Đối lại là cái cảnh chảy nước mắt của bao dân nghèo phải chi tiền nhiều hơn vào ngày thứ 6, khi mà cá mắc hơn thịt.

Giáo luật ngày nay vẫn giữ nguyên tình trạng như vậy chứ ?

Bộ giáo luật hiện hành vẫn còn duy trì luật kiêng thịt, tuy nhiên với một tinh thần mới của công đồng Vaticanô II mà đức Phaolô VI đã muốn tiêm nhiễm với tông hiến Poenitemini (17/2/1966). Tinh thần đó có thể tóm lại 3 điểm sau: Tiên vàn là phải kiêng những gì xấu xa, tức là kiêng phạm tội; nói khác đi việc chay ăn chay thịt phải được lồng trong tinh thần thống hối cải hoán. Ngoài sự kiêng cái xấu, chúng ta hãy gắng tiến thêm một bước để kiêng cả cái tốt: sự kiêng cái tốt cũng nằm trong tinh thần đền tội và tu đức, để tập kiềm chế những đòi hỏi của bản năng dục vọng. Dưới khía cạnh này, lãnh vực kiêng khem rất là rộng: từ kiêng ăn uống cho tới kiêng thuốc lá, tivi, các thứ tiêu khiển giải trí, các thứ tiêu pha hoang phí. Bước thứ ba nữa là ngoài tính cách tiêu cực (kiêng lánh) cần thêm tính cách tích cực: nhịn ăn nhịn mặc để lấy tiền giúp đỡ người nghèo, tỏ tình tương trợ với người thiếu ăn thiếu mặc. Đó là cái động lực của việc kiêng khem. Các Hội đồng Giám mục sẽ tùy theo hoàn cảnh của mỗi địa phương mà đề ra những hình thái cụ thể trong việc áp dụng luật ăn chay kiêng thịt chiếu theo đ.1251 và 1253 của bộ giáo luật.

Lm. Phan Tấn Thành, O.P.

Nguồn: daminhvn

Đức Thánh Cha chủ sự lễ Tro

ROMA. Chiều thứ tư lễ tro 1-3-2017, ĐTC đã chủ sự thánh lễ khai mạc mùa chay thánh, với nghi thức xức tro tại Đền thờ Thánh nữ Sabina ở Roma.

duc-thanh-cha-chu-su-le-tro

Đức Thánh Cha chủ sự lễ Tro

 Từ Vatican ĐTC đã đến Nhà thờ Thánh Anselmo của dòng Biển Đức, và từ đây lúc 4 giờ rưỡi ngài chủ sự cuộc rước thống hối tới đền thờ Thánh nữ Sabina của dòng Đa Minh trên đồi Aventino ở Roma.

 Đi trong đoàn rước với ĐTC, có hàng chục HY, GM, đông đảo tu sĩ dòng Biển Đức và Đa Minh, trong đó có 2 vị Bề trên Tổng quyền của 2 dòng liên hệ. Trên quãng đường dài 500 mét, các vị vừa đi vừa hát kinh cầu các thánh, và thánh ca thống hối.

 Tại Vương cung Thánh Đường thánh nữ Sabina, có từ thế kỷ thứ 5, ĐTC đã chủ sự thánh lễ đồng tế với nghi thức xức tro, cùng với các Hồng Y và Giám Mục, trước sự tham dự của linh mục tu sĩ nam nữ và giáo dân, đặc biệt là các vị lãnh đạo Hội Hiệp sĩ Malta.

 Bài giảng của Đức Thánh Cha

 Trong bài giảng Thánh lễ, ĐTC nhắc nhở về ý nghĩa đích thực của Mùa Chay và mời gọi mọi người trở về cùng tâm hồn thương xót của Chúa Cha. Ngài nói:

 ”Mùa chay là một con đường dẫn chúng ta đến chiến thắng của lòng thương xót trên tất cả những gì không phù hợp với phẩm giá làm con cái Thiên Chúa. Mùa chay là con đường đi từ tình trạng nô lệ đến tự do, từ đau khổ đến vui mừng, từ sự chết đến sự sống. Cử chỉ xức tro qua đó chúng ta bắt đầu hành trình, nhắc nhớ chúng ta về thân phận nguyên thủy của mình: chúng ta đã được rút từ đất, chúng ta đã được hình thành bằng bụi đất. Đúng vậy, nhưng bụi đất trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, Đấng thổi thần khí sự sống của ngài trên mỗi người chúng ta và muốn tiếp tục làm như vậy. Chúa muốn tiếp tục ban cho chúng ta hơi thở sự sống, cứu chúng ta khỏi những thứ hơi thở khác là sự nghẹt thở vì sự ích kỷ của chúng ta, nghẹt thở vì những tham vọng nhỏ nhoi và âm thầm dửng dưng lãnh đạm; sự nghẹt thở bóp nghẹt tinh thần, thu hẹp chân trời và làm cho nhịp tim đập bị gây mê.

 ”Đối ngược với tình trạng đó là hơi thở sự sống của Thiên Chúa, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự nghẹt thở mà nhiều khi chúng ta không ý thức, và thậm chí chúng ta còn coi nó là tình trạng bình thường, cho dù ta cảm thấy hậu quả của nó…

 ĐTC nói thêm rằng ”Mùa chay là mùa để từ khước. Từ khước sự nghẹt thở vì ô nhiễm do thái độ gây ra do sự dửng dưng, không nghĩ đến cuộc sống của người khác; nghẹt thở vì mỗi toan tính coi rẻ sự sống, nhất là sự sống của những người mang trong thân thể mình gánh nặng của bao nhiêu sự hời hợt. Mùa chay muốn từ khước sự ô nhiễm do những lời nói trống rỗng, vô nghĩa, những thứ phê bình thô sơ và mau lẹ, những phân tích giản lược vấn đề không có khả năng ý thực về sự phức tạp của các vấn đề con người, nhất là những vấn đề của những người chịu đau khổ nhiều nhất.

 Cũng trong bài giảng, ĐTC khẳng định rằng ”Mùa chay là mùa nhớ lại, là thời kỳ suy nghĩ và tự hỏi: Giả sử Thiên Chúa khép cửa đối với chúng ta chúng ta sẽ ra sao? Giả sử Thiên Chúa không thương xót chúng ta, mệt mỏi trong việc tha thứ cho chúng ta, không luôn cho chúng ta cơ hội để bắt đầu lại thì chúng ta sẽ ra sao?

 ”Mùa chay là mùa tái hô hấp, là mùa mở rộng con tim cho hơi thở của Đấng Duy nhất có khả năng biến đổi chúng ta là bụi đất thành con người. Đây không phải là mùa xé áo trước sự ác quanh chúng ta, nhưng đúng hôn là mùa dành không gian trong cuộc sống chúng ta cho tất cả những điều thiện mà chúng ta có thể thực hiện được”.

 Trong nghi thức sau bài giảng, ĐHY Jozef Tomko, 93 tuổi người Slovak, nguyên Tổng trưởng Bộ truyền giáo, có nhà thờ hiệu tòa là Đền thờ thánh nữ Sabina, đã bỏ tro trên đầu ĐTC, trước khi ngài bỏ tro cho các Hồng y và một số tín hữu, trong khi 12 LM Đa Minh và Biển Đức bỏ tro trên đầu các tín hữu hiện diện. (SD 1-3-2017)

 G. Trần Đức Anh OP

Nguồn tin: Vatican

Tổng Giáo phận Sài Gòn khuyến khích bữa cơm gia đình

Dùng bữa cơm gia đình chung với nhau thúc đẩy sự gắn bó và giáo dục người trẻ về các giá trị của đức tin
Những người tham dự cầu nguyện cùng nhau trước bữa ăn trong sự kiện được Tổng Giáo phận Sài Gòn tổ chức hôm 07 tháng 01 vừa qua. Hình: chuongtrinhchuyende.com
Những người tham dự cầu nguyện cùng nhau trước bữa ăn trong sự kiện được Tổng Giáo phận Sài Gòn tổ chức hôm 07 tháng 01 vừa qua. Hình: chuongtrinhchuyende.com

Tổng Giáo phận Sài Gòn xem việc gìn giữ bữa cơm gia đình là cách củng cố tình thân và nuôi dưỡng sự hòa ái trong cộng đồng.

Khoảng 300 người theo Công giáo và Phật giáo tham dự sự kiện được Ban Mục vụ Gia đình Tổng Giáo phận Sài Gòn tổ chức gọi là “Bữa cơm Thiên đường”.

Sự kiện này là một phần trong chiến dịch mời gọi các gia đình khám phá lại sự quan trọng của thời gian gia đình dùng cơm chung với nhau.

“Chúng ta nên duy trì bữa ăn chung trong các gia đình Công giáo. Này là lúc chúng ta cùng nhau cầu nguyện cùng Chúa, bày tỏ sự quan tâm chăm sóc, nói chuyện và cùng chia sẻ cho nhau thức ăn”, nữ tu Maria Nguyễn Thị Hồng Quế phát biểu tại sự kiện.

Tham dự sự kiện có Đức Giám mục Phụ tá Đỗ Mạnh Hùng và Mục sư Phạm Đình Nhẫn và phu nhân.

Sơ Quế, người khởi xướng chương trình, nói bữa cơm gia đình là lúc các thành viên gia đình hợp lại thúc đẩy sự hòa ái giữa cha mẹ và con cái, giáo dục cho con trẻ các giá trị của đức tin và cho bọn trẻ cơ hội sống trong đời sống gia đình.

Những người tham dự sự kiện được xem vở kịch diễn tả thực trạng đau lòng trong bữa cơm chung của các gia đình hiện nay. Trong bữa ăn, người cha lo trả lời điện thoại, người con trai thì chăm chú chơi trò Pokemon GO, người con trai khác về nhà trong tình trạng say rượu. Không ai nói với nhau câu nào và nhanh chóng rời đi sau bữa ăn.

Sơ Quế cảnh báo rằng, “bỏ quên bữa cơm gia đình là khởi đầu của sự tan vỡ gia đình và kéo theo những hệ lụy khác”. Sơ kêu gọi mọi người dừng sử dụng điện thoại, không xem ti vi trong bữa ăn và hãy để thời gian này nói chuyện, chia sẻ với nhau để xây dựng gia đình hạnh phúc.

Ngày nay, người ta dành nhiều thời gian cho những người khách, chuẩn bị thức ăn và tìm kiếm các nhà hàng bên ngoài, nhưng quên đi ý nghĩa sâu sắc của bữa cơm gia đình, Sơ Quế nói thêm.

Đức cha Hùng nói bữa cơm gia đình nên biểu hiện tình yêu và sự hiệp thông trong Thánh Thể. Các bậc cha mẹ làm việc chăm chỉ kiếm tiền nuôi sống gia đình và đó cũng là cách bày tỏ sự yêu thương với con cái. Trong bữa ăn, các thành viên chia sẻ niềm hân hoan và sống trong sự hiệp thông, ngài nói.

“Khi chúng ta ăn, chúng ta phải cảm ơn Thiên Chúa và nghĩ đến những người nghèo và những người vắng mặt trong bữa ăn”, Đức cha Hùng nói, và thêm rằng nếu không có các thành viên trong bữa cơm gia đình thì bữa cơm gia đình không còn tồn tại.

Những người tham dự sự kiện cùng dự bữa ăn và cùng thực hành những gì đã được chia sẻ qua buổi gặp gỡ. Mọi người cũng được nhận bản hướng dẫn cầu nguyện cho bữa ăn của gia đình để họ thực hành tại nhà.

Nguồn tin: UCAN