Archive | June 2014

Có linh hồn nào ”mồ côi” và ”khốn nạn” không?

Hỏi: Xin cha giải thích rõ về những linh hồn mà người ta quen gọi là “mồ côi” và “khốn nạn” trong nơi Luyện hình.

 

Purgatory

Trả lời:

I-Trước hết về những linh hồn gọi là “mồ côi”

Giáo dân Việt-Nam thường có thói quen xin lễ cầu cho những linh hồn “mồ côi” vì cho rằng những linh hồn này không có thân nhân, bạn hữu còn sống để cầu nguyện cho.

Điều này không đúng theo giáo lý của Giáo Hội vì những lý do sau đây :

1- Các linh hồn mà Giáo Hội cầu nguyện cho là AI?

Họ là những tín hữu đã ly trần “trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, mặc dù được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời, nhưng vẫn phải chịu một sự thanh luyện cần thiết sau khi chết hầu đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui Thiên đàng.” (SGLGHCG, số 1030).

Nói khác đi, những ai đã chết trong tình trạng đang hiệp thông với Chúa nghĩa là không có tội trọng (mortal sin) hoặc có nhưng đã ăn năn kịp thời và được tha qua bí tích hoà giải, thì được bảo đảm về ơn cứu rỗi đời đời, nhưng vẫn phải trải qua một thời gian ở nơi gọi là “Luyện tội=Purgatory” để được thanh tẩy khỏi mọi hình phạt hữu hạn (temporal punishment) của tội đã được tha, trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần thì “sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12:32). Xin nhắc lại tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương tha thứ của Người.

Giáo Hội chỉ dạy cầu cho các linh hồn còn đang được thanh luyện trong Luyện tội mà thôi, chứ không cầu cho những linh hồn ở nơi gọi là “Hoả ngục=Hell” được vì không còn sự hiệp thông nào giữa nơi này với Thiên đàng và Giáo Hội lữ hành trên trần thế. Nghĩa là những linh hồn ở đây “đã vinh viễn xa lìa Thiên Chúa và các thánh trên trời” (x. Sđd, số 1033).

Tuy nhiên, chúng ta không biết được những ai đang bị phat trong hoả ngục. Hơn thế nữa, Thiên Chúa là Cha quá nhân từ, nên “Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2Pr 3: 9) để được cứu rỗi. Và chỉ một mình Ngài biết số phận đời đời của những ai đã ly trần mà thôi. Giáo Hội không biết được nên chỉ dạy cầu cho các linh hồn đã ly trần, chứ chưa hề tuyên bố ai đã sa hoả ngục rồi nên khỏi cầu xin nữa. Tuy nhiên, Giáo Hội có quyền phong thánh (canonization) cho một số tín hữu đã qua đời để long trọng tuyên bố rằng “những tín hữu này đã thực hành các nhân đức một cách anh hùng và đã sống trung thành với ân sủng của Thiên Chúa…” (x. Sđd, số 828) như thánh Maria Goretti, Tê-rê-xa Giê su Hài Đồng, Thánh Phanxicô Xaviê, và 117 anh hùng tử đạo Việt-Nam (ngày 19-6-1988).v.v… Dĩ nhiên, muốn được phong thánh, phải hội đủ những điều kiện theo luật của Giáo Hội đòi hỏi.

2- Có linh hồn nào gọi là “mồ côi” không?

Đối với tất cả các tín hữu đã ly trần, hàng ngày, khi cử hành Thánh lễ Tạ Ơn (The Eucharist), Giáo Hội cầu nguyện cách chung cho tất cả như sau:

“Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa.” (Kinh nguyện Tạ Ơn II)

Các Kinh Nguyện Thánh Thể (Tạ Ơn) I, III và IV đều có những lời cầu xin tương tự như vậy cho các linh hồn đã ly trần, nghĩa là không có chỗ nào phân biệt linh hồn có thân nhân còn sống đang xin lễ cầu nguyện cho hay những linh hồn không có thân nhân còn sống để cầu nguyện cho nữa.

Người có thân nhân còn sống xin lễ cầu nguyện cho ai đã ly trần thì Giáo Hội đọc thêm lời cầu sau đây:

“Xin nhớ đến tôi tớ Chúa là…(tên thánh) mà (hôm nay) Chúa đã gọi ra khỏi đời này về với Chúa. Xin ban cho kẻ đã chết như Con Chúa thì cũng được sống lại như Người”.

Như vậy, nếu có ai xin lễ cầu cho một hay vài linh hồn nào, thì Giáo Hội đọc thêm lời cầu trên đây, nhưng vẫn không quên cầu cho tất cả các tín hữu đã ly trần không phân biệt người còn thân nhân hay “mồ côi” vì không có ai xin lễ cầu nguyện cho.

Nói linh hồn “mồ côi” là nói theo suy nghĩ của con người mà thôi; và điều này không đúng với giáo lý và thực hành trong phụng vụ thánh của Giáo Hội, vì Giáo Hội không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi, linh hồn nào có thân nhân còn sống như người ta quen nghĩ mà chỉ cầu chung cho tất cả các tín hữu đã ly trần ngay cả trong những thánh lễ có người xin cầu riêng cho những linh hồn thân nhân của họ đã qua đời

Như vậy , không có vấn đề “linh hồn mồ côi” trong niềm tin và thực hành của Giáo Hội.

Cũng xin được nói lại ở đây một lần nữa là những linh hồn đang được thanh luyện trong chốn Luyện hình đã là những linh hồn thánh (Holy souls) nhưng họ chưa thánh thiện đủ để vào Thiên Đàng hưởng nhan thánh Chúa cùng các thánh nam nữ khác. Vì thế, họ cần được “tạm trú” ở đây một thời gian dài ngắn tuỳ theo lượng khoan dung và công bằng của Chúa. Họ cần sự giúp đỡ của những tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành trên trần thế và các Thánh ở trên Thiên Đàng nguyện giúp cầu thay cho họ sớm được tha hình phạt hữu hạn để vào Thiên Quốc.

II- Có linh hồn nào bị coi là “khốn nạn” trong nơi luyện tội hay không?

Trong một kinh đọc trước thánh lễ ở một vài cộng đoàn Việt-Nam, người ta nghe thấy có những câu đại ý như sau:

“Xin Chúa ban những ân xá nào có thể chỉ được cho các linh hồn, nhất là những linh hồn khốn nạn trong luyện ngục…”

Tôi không nhớ rỏ từng chữ trong kinh này nhưng chắc chắn có nghe cụm từ “những linh hồn khốn nạn trong luyện hình.

Vậy Ai là những linh hồn “khốn nạn” trong luyện hình? Mà “khốn nạn” theo nghĩa nào?

Chắc chắn đây chỉ là tưởng tượng của ai đã đặt ra kinh “quái dị” nói trên để giáo hữu một số nơi cứ đọc mà không ai chịu sửa chữa cho phù hợp vơi giáo lý, tín lý của Giáo Hội

Như đã giải thích ở phần trên, các linh hồn, dù đau khổ trong nơi luyện tội, đã là các linh hồn thánh (Holy Souls) rồi và có thể chuyển cầu đắc lực cho các tín hữu trên trần thế, nhưng không thể tự giúp mình được vì thời gian đả mãn, không cho phép họ làm việc lành thêm hoặc phạm tội thêm được nữa. Họ là những người có hy vọng chắc chắn được cứu rỗi, và chỉ còn chờ thời gian sớm hay muộn mà thôi. Vậy làm sao họ có thể bị coi là “khốn nạn” được? Có chăng chỉ có những linh hồn đã phải lìa xa Chúa đời đời trong nơi gọi là “hoả ngục” thì mới “khốn nạn” mà thôi, vì phải lìa xa Chúa vĩnh viễn. Và chúng ta cũng không thể làm gì để cứu họ được, vì không có sự hiệp thông nào giữa những ai ở hoả ngục với các thánh ở trên trời và các tín hữu còn trong Giáo Hội lữ hành trên trần gian. (x. SGLGHCG số 1033)

Vậy dứt khoát không có vấn đề cầu cho những linh hồn “khốn nạn” trong luyện hình vì từ ngữ này không đúng để mô tả tình trạng của các linh hồn ở nơi đó

Họ có đau khổ bao lâu chưa được hưởng Nhan Thánh Chúa, là nguồn mọi vinh phúc, hoan lạc của các thánh và các thiên thần, nhưng họ được bảo đảm ơn cứu độ muôn đời, vì đã ra đi trong ơn nghĩa của Chúa, nghĩa là sẽ có ngày họ được hưởng Nhan Thánh Ngài. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, vì chưa được thánh thiện hoàn toàn để vào ngay Thiên Đàng nên họ phải chịu thanh tẩy ở nơi thanh lọc cuối cùng này trong một thời gian dài ngắn tuỳ theo lượng khoan dung và công bình của Chúa đòi hỏi. (x Sđd, số 1030-1031)

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Ơn thông hiểu của Chúa Thánh Thần

Ơn thông hiểu Chúa Thánh Thần ban giúp chúng ta hiểu Lời Chúa, chương trình cứu độ và mọi sự trong chiều sâu như Thiên Chúa hiểu.

Chua-thanh-than

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 30-4-2014. Dưới bầu trời mùa xuân Roma trong xanh với nắng ấm đã có khoảng 100.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung với Đức Thánh Cha. Hàng ngàn người khác tới trễ đã phải theo dõi buổi tiếp kiến ngoài quảng trường Pio XII. Sở dĩ tín hữu đông vì có nhiều đoàn hành hương về Roma tham dự lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II vẫn còn đang viếng thăm Roma.

Đã có hàng chục trẻ em được các cận vệ bế lên để cho Đức Thánh Cha hôn, có em mới chỉ được mấy tháng tuổi. Đó là niềm vui lớn của các bà mẹ. Có nhiều người tặng mũ ”calốt” cho Đức Thánh Cha, ngài lấy đội, rồi trao lại cho họ làm kỷ niệm. Cũng có nhiều người tặng khăn và áo thun cho ngài và ném vào xe díp. Hễ ngài quay qua bên phải lâu quá, thì tín hữu đứng bên trái lại réo gọi. Ngài đã dành hơn 45 phút để chào các tín hữu.

Trong bài giáo lý Đức Thánh Cha đã tiếp tục giải thích các ơn Chúa Thánh Thần ban cho tín hữu. Sau ơn khôn ngoan là ơn đầu tiên, ơn thứ hai là ơn thông hiểu. Ngài khẳng định ngay như sau:

Đây không phải là sự thông minh của con người, khả năng hiểu biết mà chúng ta ít nhiều có được. Trái lại, nó là một ơn mà chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể đổ vào trong chúng ta và dấy lên nơi kitô hữu khả năng đi xa hơn khía cạnh bề ngoài của thực tại và thăm dò các sự sâu thẳm nơi tư tưởng của Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người.

Khi nói với cộng đoàn Côrintô, tông đồ Phaolô miêu tả đúng các hiệu qủa của ơn này, nghĩa là điều ơn thông hiểu của Chúa Thánh Thần làm nơi chúng ta. Thánh nhân nói như sau: ”Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người”. Còn chúng ta chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí” (1 Cr 2,9-10).

Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là một tín hữu kitô có thể hiểu biết mọi sự và tràn đầy các chương trình của Thiên Chúa: tất cả những điều đó còn chờ được tỏ lộ ra trong tất cả sự trong sáng của chúng, khi chúng ta sẽ ở bên Thiên Chúa và thực sự là một với Người. Tuy nhiên, như từ hiểu biết gợi ý, hiểu biết intelletto cho phép ”đọc bên trong” ”intus – leggere”. Ơn này khiến cho chúng ta hiểu các sự vật như Thiên Chúa hiểu, với sự thông minh của Thiên Chúa. Bởi vì một người có thể hiểu một tình trạng với trí thông minh của con người, với sự thận trọng, thì tốt thôi. Nhưng hiểu một tình trạng trong chiều sâu, như Thiên Chúa hiểu, là hiệu quả của ơn ấy. Và Chúa Giêsu đã muốn gửi Chúa Thánh Thần cho chúng ta để chúng ta có ơn ấy, để chúng ta tất cả có thể hiểu các sự vật như Thiên Chúa hiểu chúng, với sự thông hiểu của Thiên Chúa. Đây là một món qùa đẹp mà Chúa đã ban cho tất cả chúng ta.

Đó là ơn, qua đó Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào trong sự thân tình với Thiên Chúa và khiến cho chúng ta được tham dự vào chương trình tình yêu mà Người có đối với chúng ta. Khi đó thật rõ ràng là ơn thông hiểu gắn liền mật thiết với đức tin.

Khi Chúa Thánh Thần ở trong tim chúng ta và soi sáng trí khôn chúng ta, Người làm cho chúng ta lớn lên mỗi ngày trong sự thông hiểu điều mà Chúa đã nói và đã làm. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người: Thầy sẽ gửi Thánh Thần cho anh em và Người sẽ làm cho anh em hiểu tất cả những gì

Thầy đã dậy anh em. Hiểu các giáo huấn của Chúa Giêsu, hiểu Lời Người, hiểu Tin Mừng, hiểu Lời của Thiên Chúa. Một người có thể đọc Phúc Âm và hiểu điều gì đó, nhưng nếu chúng ta đọc Phúc Âm với ơn của Chúa Thánh Thần chúng ta có thể hiểu chiều sâu các lời của Thiên Chúa. Và đây là một ơn lớn, một ơn vĩ đại mà tất cả chúng ta phải xin và xin cùng nhau: Lậy Chúa xin ban cho chúng con ơn thông hiểu.

Trong Phúc Âm thánh Luca có một chuyện diễn tả rất rõ sự sâu thẳm và sức mạnh của ơn đó. Đó là câu chuyện hai môn đệ trên đường về làng Emmaus. Sau khi chứng kiến cái chết trên thập giá và việc chôn cất Đức Giêsu, hai môn đệ tuyệt vọng và tan nát bỏ thành Giêrusalem và trở về làng tên là Emmaus.

Trong khi họ đi đường Chúa Giêsu phục sinh đến đi bên cạnh và bắt đầu nói chuyện với họ, nhưng mắt họ bị che mờ bởi sự buồn đau và nỗi tuyệt vọng nên không nhận ra Người. Chúa Giêsu đi với họ, nhưng họ buồn sầu, họ tuyệt vọng tới nỗi họ không nhận ra Người.

Nhưng khi Chúa giải thích Thánh Kinh, để họ hiểu rằng Người phải đau khổ và chết đi để rồi sống lại, trí khôn họ mở ra và niềm hy vọng tái nhóm trong con tim của họ (x. Lc 24,13-27).

Và đây chính là điều Chúa Thánh Thần làm với chúng ta: Người mở tâm trí chúng ta, Người mở chúng ta ra để hiểu các điều của Thiên Chúa hơn, hiểu các điều của con người, các tình trạng, tất cả mọi sự. Ơn thông hiểu thật là quan trọng đối với cuộc sống kitô. Chúng ta hãy xin Chúa ơn đó, xin Người ban cho chúng ta, ban cho tất cả chúng ta ơn này để hiểu như Người hiểu, hiểu các sự vật xảy ra, và nhất là hiểu Lời Chúa trong Phúc Âm.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu đến từ các nước Bắc Mỹ và Tây Âu, cũng như các phái đoàn đến từ các nước: Benin, Uganda, Nam Phi, Philippines, Đài Loan, Malaysia, hay các đoàn hành hương đến từ các nước châu Mỹ Latinh như Honduras, Uruguay, Argentina, Mêhicô, Brasil. Ngài cầu mong tín hữu để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc sống.

Chào các tín hữu Ba Lan về Roma tham dự lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha cầu mong chứng tá đức tin, đức cậy, đức mến và sự tín thác nơi Lòng Chúa Thương Xót của thánh Gioan Phaolô II đặc biệt sống động trong những ngày này, sự bầu cử của người nâng đỡ cuộc sống và các ý hướng tốt lành của từng người, cũng như các âu lo và niềm vui của người thân, sự phát triển và tương lai an bình của Giáo Hội tại Ba Lan và trong toàn quê hương của họ.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý được chào có đoàn các trẻ em chịu phép Thêm Sức do Đức Cha Antonio De Luca Giám Mục giáo phận Teggiano-Policastro hướng dẫn; nhóm các nữ tu Salésiennes Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria; các chủng sinh giáo phận Catania và Caltagirone; các tham dự viên cuộc hội học do Đại học Santa Croce tổ chức; tín hữu giáo xứ Montecchio hành hương Roma nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập giáo xứ. Đức Thánh Cha cầu mong chuyến viếng thăm mộ các thánh Tông Đồ và các Giáo Hoàng, dịp phong hiển thánh cho Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II giúp họ đào sâu đức tin và việc tùy thuộc dân thánh Chúa.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, ngài nhắc cho mọi người biết Giáo Hội mới mừng kính thánh nữ Catarina thành Siena Bổn Mạng Italia và Âu châu. Ngài khuyên các bạn trẻ noi gương thánh nữ sống với lương tâm ngay thẳng không nhượng bộ các giàn xếp nhân loại. Ngài nhắn nhủ các bệnh nhân noi gương mạnh mẽ của thánh nữ trong những lúc khổ đau, và khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới noi gương đức tin vững vàng của người biết tín thác nơi Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Nguồn: RV
.
Chuyên Mục: Giáo Hội Hoàn Vũ

Có được phép đi lễ ở nhà thờ Tin Lành?

Con là người Công Giáo, ở gần nhà con có một nhà thờ Tin Lành, con xin hỏi vậy con có được phép đi lễ ở nhà thờ Tin Lành (hay ở các nhà thờ không phải của đạo Công Giáo) không? Nếu không được thì con sẽ mắc lỗi gì nếu con đã đi lễ ở đó? (Đỗ Thắng)

 

 

 

Cha Luca trả lời:

Bạn thân mến,

Khi người tín hữu hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo thì tin rằng “ đó là Giáo Hội độc nhất của Chúa Kitô mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là duy nhất, thánh thiện ,công giáo và tông truyền…….. ..Giáo Hội ấy tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phê-rô và các Giám Mục hiệp thông với Ngài điều khiển..” (x. Lumen Gentium, in Vat. II ,số 8).

Và như vậy bình thường người tín hữu Công Giáo không được phép tham dự Thánh lễ với niềm tin và lãnh nhận bất cứ nghi thức hay ‘bí tích” nào trong các Giáo Hội ngoài Công Giáo. Nghĩa là không được hiệp thông trong niềm tin với bất cứ giáo phái nào ngoài Công Giáo. Nếu vì  giao tế mà phải tham dự nghi lễ của tôn giáo  nào khác thì người Công Gáio chỉ được tham dự vì xã giao và thân hữu chứ không vì muốn chia sẻ niềm tin hay hiệp thông trọn vẹn với họ. Thí dụ, một số giáo phái Tin Lành cũng có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho, nhưng họ không tin có sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô như Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống tin trong bí tích Thánh Thể. Cho nên , nếu tín hữu Công Giáo, vì xã giao mà phải tham dự một nghi lễ nào của anh  em Tin Lành, thì không được tham dự vào việc bẻ bánh và uống rượu này, vì làm như vậy là hiệp thông với họ trong niềm tin không có Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu. Và như thế sẽ mâu thuẫn với niềm tin và hiệp thông của mình trong Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất mà Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng các Thánh Tông Đồ như Công Đồng Vaticanô II đã dạy trên đây.

Tuy nhiên , trong hoàn cảnh chưa hiệp nhất hiện nay giữa các Giáo Hội có chung một niềm tin vào Chúa Kitô nhưng chưa hiệp thông và hiệp nhất trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, thì chúng ta cần biết những điều quan trọng  sau đây:

1- Trước hết, Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận Phép Rửa của mọi Giáo Hội khác nếu Phép này được làm với nước và công thức Chúa Ba Ngôi. Do đó, những người đã được rửa tội đúng với công thức này trong các giáo phái khác sẽ không phải rửa tội lại mà chỉ cần tuyên xưng đức tin  khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo mà thôi.

2- Trong các Giáo Hội ly khai, chỉ có Giáo Hội Chính Thống Đông Phương  ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga và vài nước Đông Âu là gần gũi với Giáo Hội Công Giáo hơn cả về mặt đức tin,thần học, kinh thánh, phụng vụ và bí tích. Các Giáo Hội này có đủ các bí tích hữu hiệu như Giáo Hội Công Giáo. (x.SGLGHCG,số  1399).

Vì thế , theo giáo luật và giáo lý của Giáo Hội thì :

    a- Khi vì nhu cầu thiêng liêng cần kíp mà không tìm được nhà thờ hay linh muc Công Giáo để xin lãnh các bí tích hòa giải, xức dầu và Thánh Thể, thì người Công Giáo được phép lãnh nhận các tích này nơi các thừa tác viên ngoài Công Giáo (Giáo Hội Chính Thống Đông Phương) vì  Giáo Hội này có các bí tích ấy.

    b- Các thừa tác viên Công Giáo (Giám mục, Linh mục) cũng có thể ban các bí tích đó  cho các tín hữu thuộc các Giáo Hội trên nếu họ tự ý xin và tỏ ra sẵn sàng lãnh nhận các bí tích này trong Giáo Hội Công Giáo.

    c- Riêng đối với các tín hữu thuộc các Giáo Hội khác, thì  chỉ trong trường hợp nguy tử nếu họ không thể đến được với các thừa tác viên trong Giáo Hội của họ, và nếụ họ thực sự muốn tuyên xưng đức tin trong Giáo Hội Công Giáo và muốn lãnh nhận các bí tích trên với lòng ao ước và chuẩn bị cần thiết  thì các thừa tác viên Công Giáo cũng được phép ban các bí tích ấy cho họ. Xin nhấn mạnh là chỉ trong trường hợp nguy tử và vì lợi ích thiêng liêng của người muốn thụ hưởng mà thôi. ( x. Canon #844 &1,2,3,4: SGLGHCG, số 1399, 1401).

2- Người không Công Giáo (trừ anh  em Chính Thống Đông Phương) tham dự Thánh lể trong nhà thờ Công Giáo không được phép rước Mình Máu Thánh Chúa vì thiếu sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo và không hiểu rõ giá trị thiêng liêng của việc cao trong này. Thừa tác viên Công Giáo, nếu biết rõ ai là người không Công Giáo lên rước lễ, thì không được phép trao Mình Thánh Chúa mà chỉ chúc lành cho họ mà thôi.

Tóm lại, chỉ có các tín hữu Công Giáo và Chính Thống Đông Phương  có thể lãnh các bí tích trong cả hai Giáo Hội này cách hợp pháp và hữu hiệu trong trường hợp cần thiết  vì ngăn trở thể  lý không cho phép họ lãnh nhận ở Giáo Hội mình. Thí dụ, ở nơi không có nhà thờ và linh muc Công Giáo, chỉ có nhà thờ Chính Thống, thì giáo dân được phép tham dự phụng vụ và rước Thánh Thể ở nhà thờ này, và ngược lại đối với các giáo hữu Chính Thống, nếu họ muốn.

Sỡ dĩ Giáo Hội cho phép điều này vì Giáo Hội nhìn nhận chức tư tế và phép Thánh Thể của Giáo Hội Chính Thống Đông Phương là Giáo Hội có nguồn gốc Tông Đồ thực sự. (Thánh Giacôbê đã truyền giáo ở vùng đất nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi Thánh Phêrô truyền giáo ở LaMã)  mặc dù cho đến nay Giáo Hội này chưa hiệp thông và hiệp nhất trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo.

 svphatdiem.com

Giấy Chứng nhận làm người

10175033_280257562099597_2520141807995111134_n

 

Trên đoàn tàu Thống Nhất, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi đi làm thuê.
– Cho tôi xem vé ?
Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra.
Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc :
– Ðây là vé trẻ em.
Người đàn ông đứng tuổi đỏ bừng mặt, nhỏ nhẹ đáp :
– Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao ?
Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi :
– Anh là người tàn tật ?
– Vâng, tôi là người tàn tật.
– Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp :
– Tôi… không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em.
Cô soát vé cười gằn :
– Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật ?
Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên
Anh chỉ còn một nửa bàn chân.
Cô soát vé liếc nhìn, bảo :
– Tôi cần xem chứng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ “Giấy chứng nhận tàn tật”, có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật !
Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích :
– Tôi không có tờ khai gia đình của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra tai nạn ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định…
Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình.
Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật…
Trưởng tàu cũng hỏi :
– Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu ?
Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình .
Trưởng tàu cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói :
– Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.
Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có hơn 50 ngàn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc :
– Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.
Trưởng tàu nói kiên quyết :
– Không được.
Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu :
– Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ.
Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý :
– Cũng được.
Một người già ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi :
– Anh có phải đàn ông không ?
Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại :
– Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không ?
– Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không ?
– Ðương nhiên tôi là đàn ông !
– Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông ?
Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem ?
Mọi người chung quanh cười rộ lên.
Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói :
– Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả ?
Ông già lắc lắc đầu, nói :
– Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông.
Vị trưởng tàu tịt ngòi, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao. Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với ông cụ :
– Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi.
Ông già chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng :
– Cô hoàn toàn không phải người !
Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé :
– Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì ?
Ông cụ vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:
– Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận “người” của cô ra xem nào…
Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.
Chỉ có một người không cười. Ðó là người đàn ông trung niên bị cụt chân. Anh cứ nhìn trân trân vào mọi thứ trước mặt. Không biết tự bao giờ, mắt anh đẫm lệ, không rõ anh tủi thân, xúc động, hay thù hận.

Những nghề sắp thành dĩ vãng ở Sài gòn

Nhịp sống Sài Gòn ngày càng năng động, hiện đại nên những nghề một thời phát triển như viết thư thuê, vẽ tranh truyền thần, thợ rèn… dần tàn lụi, chỉ còn người già cả bám nghề.

 

 

Dòng người ra vào Bưu điện TP.HCM đã quen thuộc với hình ảnh ông lão  viết thư thuê Dương Văn Ngộ (84 tuổi). Ông là người gốc Triều Châu, từng học trường Petrus Ký, lấy bằng trung học Pháp năm 22 tuổi và gia nhập đội ngũ nhân viên bưu điện. Đến nay ông đã có hơn 30 năm gắn bó với nghề. Về hưu nhưng vẫn nhớ nghề nên ngày nào ông cũng ra bưu điện viết, dịch thư tiếng Pháp, tiếng Anh cho khách.

 

Làm ngành bưu điện hàng chục năm, nên ông Ngộ luôn đúng giờ giấc. Đều đặn 8h sáng đến 16h chiều mỗi ngày, ông đạp xe từ nhà ở Thị Nghè lên bưu điện. Trong công việc, ô

ng luôn yêu cầu phải ghi đủ họ tên, địa chỉ người gửi và người nhận, dán tem đúng chỗ. Ông cũng không nhận viết  thư có nội dung gây hiềm khích, bêu riếu…

 

Gia tài của ông là cái kính lúp, những bức thư, bưu thiếp… cảm ơn của khách. Ông Ngộ được Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam xác nhận là người viết thư thuê lâu năm nhất Việt Nam. Ngoài ra, nhiều người mến mộ gọi ông bằng những mỹ từ như “người viết thư tình xuyên thế kỷ”, “người nối thế giới bằng những lá thư tay”…

Một trong những nghề hiếm hoi còn sót lại ở Sài Gòn là vẽ tranh truyền thần. Trên góc nhỏ vỉa hè đường Điện Biên Phủ, ông Từ Hoa Lợi (77 tuổi, quê Quảng Ninh) vẫn miệt mài vẽ tranh cho khách. Ông Lợi được xem là người vẽ tranh truyền thần cuối cùng ở Sài Gòn.

Ông Lợi gắn bó với nghề hơn 50 năm, trong đó có 23 năm vẽ tranh truyền thần ở Sài Gòn. Ngày xưa loại hình này còn có nhiều người làm, nhưng hiện nay chỉ còn duy nhất ông Lợi vẫn bám nghề vì quá yêu. Ông chưa từng từ chối bức tranh nào của khách cũng như chưa từng nghĩ đến công việc khác.

“Những bức ảnh nào tôi còn nhìn ra đường nét thì có thể vẽ được. Ngày nay công nghệ ảnh hiện đại nhưng đều do máy móc làm, không có được cái hồn như chính bàn tay, con mắt người vẽ”, ông Lợi nói. Đều đặn mỗi ngày ông làm từ 8h sáng, 16h nghỉ. Mỗi bức vẽ ông Lợi hoàn thành trong thời gian từ 3 – 5 tiếng.

Khách hàng của ông thường nhờ ông vẽ lại những bức hình đã quá cũ, khó khôi phục. Có người thì nhờ ông lưu giữ lại nét thanh xuân khuôn mặt mình. Ngoài ra ông Lợi còn có khả năng vẽ bằng trí nhớ qua cách miêu tả của người thân nhân vật trong bức vẽ.

Ông Lê Văn Châu (63 tuổi, Q.10) là một trong những thợ rèn hiếm hoi còn sót lại ở Sài Gòn. Ngày ngày, lò rèn nhỏ của ông ở bên hông chợ Nhật Tảo vẫn đỏ lửa, đều đặn tiếng quai búa như hơn 30 năm nay ông vẫn làm. Đến nay, dù nghề này không con phổ biến nhưng ông Châu vẫn bám nghề để mưu sinh.

Phụ ông Châu trong công việc chính là bà Minh Nguyệt (53 tuổi), bạn đời của ông. Vì muốn giúp chồng nên bà Nguyệt không ngại nặng nhọc, bụi bặm để gắn bó với búa, đục, bếp lửa… Hơn 25 năm theo nghề, bà Nguyệt cũng quai búa giỏi không thua gì chồng.

Đến bây giờ, nghề thợ rèn vẫn là nguồn thu nhập chính của gia đình. Vợ chồng bà có 2 người con nhưng công việc vẫn chưa ổn định, ông bà cố làm tăng thu nhập để lo cho con cái. “Bây giờ người ta làm bằng máy hết, ít ai rèn thủ công nữa. Tôi và ông xã cứ làm được ngày nào hay ngày ấy, lai rai kiếm sống qua ngày”, bà Nguyệt  chia sẻ.

Khu vực đường Lê Thánh Tôn (Q.1) được gọi là phố sửa giày ở Sài Gòn. Tuy nhiên hiện nay không còn nhiều người theo nghề sửa giày lề đường. Lớn nhất phải kể đến tiệm sửa chữa và đóng mới giày của anh Văn bên cạnh nhà triển lãm TP.HCM. Tiệm hoạt động nhộn nhịp như một phân xưởng nhỏ. Hằng ngày, ông chủ và các thợ phụ cứ loay hoay cắt dán, chà nhám, khoan lỗ, đóng đinh, đánh bóng dép giày…

Anh Văn thừa kế vốn nghề của cha. Từ lúc chỉ mới 14 tuổi, cậu bé Văn đã phải ra vỉa hè kiếm sống cùng cha. Đến năm 1991, cha mất thì anh tiếp nhận cái “nghiệp” sửa giày vỉa hè.

Hơn 20 năm lăn lộn trong nghề, Văn đã trở thành ông thợ sửa kiêm đóng giày có uy tín ở khu vực Lê Thánh Tôn. Dù làm ở lề đường, nhưng có nhiều khách Tây, người giàu có, ca sĩ, diễn viên… vẫn đến tiệm của anh, ngồi ghế nhựa và chờ anh sửa giày.

Nghề mài dao kéo dạo đã có từ lâu ở Sài Gòn. Xã hội càng hiện đại, càng khó để bắt gặp hình ảnh người mài dao kéo chất trên xe đạp đá mài, dao, búa… Trong ảnh, ông Tư Lúa (60 tuổi) đến tận nhà khách hàng ở Thủ Đức để mài dao. Với mỗi con dao được mài sắc, ông đều lấy giá 5 ngàn đồng.

Mỗi ngày ông di chuyển đến nhiều chợ ở các khu vực Bình Triệu, Thanh Đa, Bà Triệu… để mài dao. Khách hàng chủ yếu là những người bán thịt. Trung bình ông thu nhập khoảng 100 ngàn/ngày. Để kiếm thêm thu nhập, có lúc ông Tư Lúa đi sửa quạt, cắt tóc vỉa hè…

Sài Gòn ngày càng nhiều tiệm hớt tóc sang trọng thì những tiệm cắt tóc vỉa hè càng thưa thớt dần. Trên những con đường lớn, hầu như đã vắng hẳn dịch vụ này. Trong ảnh, một tiệm cắt tóc trên đường Tôn Đức Thắng (Q.1).

Suốt 20 năm, vẫn chỉ với bộ đồ nghề căn bản  là ghế, gương, tông-đơ, kéo, lược, dao cạo, bộ đồ lấy ráy tai… ông Nguyễn Văn Tuấn (62 tuổi) đều đặn đạp xe ra góc đường Tôn Đức Thắng hành nghề.

Khách hàng của ông Tuấn chủ yếu là tầng lớp lao động bình dân, người lớn tuổi. “Nhiều người vẫn thích hớt tóc vỉa hè vì sự gần gũi, thoải mái. Khách và thợ có thể bàn đủ thứ chuyện với hằng ngày mà không thấy chán”, ông Tuấn chia sẻ.

Học Cách Tha Thứ

untitleddfgfsg

 

Sau thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ tại Balê, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.

Người khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.

Ngày nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau: “Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồmg chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi”.

Nghe đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất: “Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu… Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi”.

Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: “Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Đại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…”.

Câu chuyện tha thứ trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những hoa trái của yêu thương, tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của lòng người…

Sự hiện diện của bà Muzeyen Agca tại Roma dạo tháng 02/1987 nhắc lại cho chúng ta một biến cố vô cùng đau thương, nhưng cũng gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quý của vị Cha chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc hàng ngàn người đang chen chúc tại công trường thánh Phêrô để chờ đón Đức Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên từ đám đông đã làm cho mọi người như đứng tim. Đức Thánh Cha đã gục ngã trên chiếc xe Jeep mui trần, máu me vọt lên tung téo. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu sát.

Ali Agca, thủ phạm chính của vụ mưu sát, đã bị bắt giữ ngay sau đó. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam giữ tại nhà tù Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu trên đây đã ghi đậm sự thù hận đang sôi sục trong lòng người… Nhưng thế giới không chỉ được nung náu bằng lò lửa của hận thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người để yêu mến và tha thứ…

Năm 1984, một biến cố khác đã làm chấn động dư luận thế giới: Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đến nhà giam Rebibbia để nói chuyện với Ali Agca và tha thứ cho anh. Không ai biết hai bên đã trao đổi những gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh tượng kẻ sát nhân và người bị mưu sát đã bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt của tha thứ, của hòa giải…

 

10329016_848416701838905_7269784156550879926_n