Archive | September 2016

Giáo lý Công giáo về việc Phá Thai

Giáo lý Công giáo số 2273 :

Quyền được sống là quyền bất khả nhượng của mọi người vô tội. Đây là một yếu tố nền tảng của xã hội dân sự và luật pháp : “Những quyền bất khả nhượng của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng. Những quyền này không tùy thuộc vào các cá nhân, không tùy thuộc vào các bậc cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hội và của Nhà Nước, nhưng thuộc bản tính của con người và gắn liền với con người do chính hành động  Thiên Chúa sáng tạo nên con người. Trong những quyền căn bản ấy, phải kể đến quyền được sống và được toàn vẹn thân thể của mọi người từ lúc thụ thai đến khi chết.” . Khi một đạo luật tước quyền được luật pháp bảo vệ của một hạng người, thì nhà nước đã phủ nhận sự bình đẳng của mọi người trước luật pháp. Khi nhà nước không phục vụ quyền của mọi công dân, đặc biệt những kẻ yếu kém nhất, thì chính nền tảng của một nhà nước pháp quyền bị đe doạ. . . Vì phải tôn trọng và bảo vệ trẻ em ngay từ bào thai, luật pháp phải dự liệu những hình phạt tương xứng cho những ai cố ý vi phạm những quyền lợi của trẻ em.

Giáo lý Công giáo số 2274 :

Ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một nhân vị, nên phải được hết sức bảo vệ toàn vẹn, chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác. Về mặt luân lý, khám thai là điều được phép làm, nếu nó tôn trọng sự sống và sự toàn vẹn của phôi  thai và thai nhi, và nếu nó nhắm tới sự bảo tồn hay chữa trị chính phôi thai hay thai nhi. Việc khám thai nghịch với luân lý cách nghiêm trọng, khi có ý khám thai để căn cứ vào kết quả có thể dẫn đến phá thai. Khám thai không thể trở thành phiên toà tuyên án tử hình. Chỉ được phép can thiệp trên phôi thai con người, với điều kiện phải tôn trọng sự sống và sự toàn vẹn của phôi thai, nhưng phải nhắm tới việc chữa trị, cải thiện sức khỏe, hoặc để cứu sống chính phôi thai.

Sản xuất những phôi thai con người với dụng ý khai thác như một vật liệu sinh vật học tiện dụng là phản đạo đức.

Đã có một vài can thiệp trên bộ nhiễm sắc thể hoặc gien di truyền để không phải trị liệu, nhưng muốn tạo ra những con người được tuyển lựa theo phái tính hoặc với những tính chất định sẵn. Những hành vi đó nghịch lại với phẩm giá của nhân vị, sự toàn vẹn và căn tính “duy nhất, không trùng lắp” của con người

XIN ĐỪNG GIẾT THAI NHI !

 

Sáng thứ tư Tuần Thánh 4.4.2007 vừa qua, bất ngờ tôi nhận một lá thư. Nội dung bức thư đã làm tôi vui mừng không thể diễn tả hết được. Tuần Thánh của tôi năm nay hết sức ý nghĩa. Tôi thấy mình sống Tuần Thánh năm nay hình như khá hơn những Tuần Thánh đi qua trong đời tôi…

 

Sau khi đọc bức thư, tôi lập tức vào Nhà Thờ. Tôi sung sướng ngây người, quỳ trước Thánh Thể Chúa một hồi lâu, mới có thể thốt lên mấy lời: “Con cảm tạ Chúa”. Tôi thấy mình thật sự là dụng cụ của Chúa. Ít là dụng cụ hữu ích của Chúa trong trường hợp mà nội dung lá thư diễn tả. Tôi tin chắc, từng anh chị em trong nhóm Bảo Vệ Sự Sống, sẽ còn vui mừng hơn tôi nhiều, chắc chắn đã và sẽ được Chúa chúc phúc thật nhiều, vì họ đã cứu được nhiều sinh mạng của nhiều người…

 

Hôm nay, tôi muốn trích lại lá thư này để chia sẻ niềm vui sướng này cùng mọi người và chia sẻ niềm đồng cảm của tôi với từng anh chị em Bảo Vệ Sự Sống.

 

  1. TRÍCH NỘI DUNG BỨC THƯ

 

“…Con xin báo tin để cha cùng chia vui với chúng con. Hôm qua con trai của con đã được rửa tội. Vợ con mới sanh nó được hơn một tháng. Nếu tính từ lúc vợ chồng chúng con đến gặp cha đến nay đã hơn bảy tháng. Suốt bảy tháng qua, chúng con đã làm mọi cách để theo dõi và chữa trị cho con của chúng con. Tuy chúng con tốn kém khá nhiều, nhưng chúng con rất bình an vì giữ được đứa con đầu lòng, là chính dòng máu, là ruột thịt của chúng con, như cha đã từng nói như thế. Và con trai của chúng con cũng khỏe mạnh lắm, không có dấu hiệu thần kinh hay bệnh tật gì.

 

Chúng con vui lắm, vì giờ đây chúng con đã thực sự được làm bố, làm mẹ. Chúng con đặt tên cho con trai đầu lòng của chúng con là Giu-se Cao Hồng Ân. Sở dĩ chúng con đặt tên cho nó là Hồng Ân, vì nếu không có cha, con đã mất đứa con đầu lòng này. Con coi đây là hồng ân lớn lao mà Chúa đã ban cho vợ chồng chúng con. Con coi cha chính là hồng ân Chúa ban cho chúng con và ban cho mọi con cái của Chúa. Con coi việc đưa vợ mình đến gặp cha kịp thời, kịp lúc để cha hướng dẫn chúng con chạy về Sài-gòn gặp cha Quang Uy và gặp bác sĩ Lan Hải trong nhóm các bác sĩ BVSS của các cha DCCT cũng chính là một hồng ân của Chúa.

 

Con lại càng coi việc đã không chấp nhận lời đề nghị của bác sĩ hai bệnh viện BD và TD cũng là một hồng ân. Tất cả những bác sĩ của hai bệnh viện nói trên mà chúng con gặp, đều bảo phải bỏ bào thai. Vì nếu không, sẽ sinh ra đứa trẻ tật nguyền. Họ còn hết lời khuyên chúng con càng phá thai sớm, càng tốt. Nhất là họ khuyên chúng con đừng sanh ra đứa con tật nguyền, khờ khạo, sẽ tội nghiệp cho nó. Lúc đó, chúng con hết sức lo lắng, băn khoăn, thậm chí rất hoang mang, mất bình an, không biết có nên nghe lời bác sĩ hay không ?

 

Biết mình là người có Đạo, chúng con đã đến gặp cha. Cha đã chỉ cho chúng con lối thoát… Bây giờ nghĩ lại, chúng con còn thấy rùng mình khiếp sợ trước quyết định vô lương tâm, thiếu trách nhiệm đến mức tàn bạo của các bác sĩ ở hai bệnh viện nêu trên nói riêng và của các bác sĩ thời nay nói chung…

 

Kính thưa cha, dù cha không còn ở Giáo Xứ chúng con nữa, nhưng chúng con vẫn thấy cha sống với chúng con trong lời cầu nguyện của chúng con dành cho cha. Chắc là cha cũng không quên cầu nguyện cho chúng con. Chúng con nhớ từng lời cha nói hôm đó, và sẽ không bao giờ quên. Chúng con tin rằng, Chúa ở cùng cha, giúp cha thật sáng suốt. Chúng con tin rằng, con của chúng con thật sự là hồng ân của Chúa. Nó thuộc về Chúa cha ạ. Vì nếu không có Chúa, chúng con đã giết chết con chúng con rồi. Cha đừng cười con nhé… Con ước ao, một ngày nào đó, con chúng con cũng… giống như cha !

 

Con vui lắm. Vui nhiều lắm cha ạ. Vì thế, từ bây giờ, dù con của con không biết mặt cha, dù cha không còn ở Giáo Xứ chúng con, nhưng con sẽ nói cho con trai của chúng con biết rằng, nó có một người ông mà nó phải gọi là ông nội, còn lớn hơn ông nội của nó…”

 

  1. HOÀN CẢNH ĐƯA TỚI BỨC THƯ

 

Sáng Chúa Nhật hôm ấy, cách nay đã hơn 7 tháng, khi vừa dâng Lễ xong, một đôi vợ chồng trẻ đến gặp tôi. Cả hai đều là Giáo Dân trong Giáo Xứ mà trước đây tôi đã làm mục vụ. Người vợ chỉ nói được câu chào, đã nghẹn ngào, không thể nói thêm được. Người chồng cho tôi biết, hai vợ chồng vừa mới có đứa con đầu lòng chưa đầy ba tháng tuổi. Nhưng bác sĩ của hai bệnh viện BD và TD đều quả quyết, thai nhi không có hộp sọ trên đỉnh đầu. Bác sĩ đề nghị hai vợ chồng phải bỏ cái thai ấy đi. Nếu không, nguy cơ rất cao sẽ sinh ra một đứa bé tật nguyền, hay không có trí khôn, hoặc còn có thêm nhiều bệnh tật khác, cũng có thể sẽ chết trong bụng mẹ…

 

Nói chung, bác sĩ đưa ra nhiều kết luận kinh hoàng, gây hoảng hốt cho người trong cuộc. Tôi có cảm giác, họ đang là một tên trùm khủng bố tinh thần con người hơn là “từ mẫu” mà ngành y khoa vẫn tự xưng như thế. Họ khủng bố nhằm ép người trong cuộc buộc lòng phải thực hiện đúng như phán quyết của họ, không chệch choạc một tí nào.

Nghe xong câu chuyện, tôi có hơi giận, nói với đôi vợ chồng:

– Cha chưa vội cho hai bạn lời khuyên có nên phá thai hay không ? Nhưng bây giờ đặt mình trước mặt Chúa, xem như Chúa đang hiện diện, đang lắng nghe chúng ta, hai bạn hãy thật lòng trả lời mấy câu hỏi của cha đã. Sau khi trả lời rồi, hai bạn hãychọn lựa có nên giữ bào thai hay không… Bào thai trong bụng của người bạn gái đây là ai ? Có phải là con của cả hai người không ?

– Thưa đó là con của chúng con.

– Vậy nó là người hay là một con chó ?

– Thưa là người.

– Như vậy phá thai, hay nói nhẹ đi, bỏ bào thai là phá cái gì, bỏ cái gì ? Một con chó hay một con người ?

– Thưa cha, một con người.

– Không chỉ là người, mà còn là con của hai bạn, là máu, là mủ, là ruột thịt của hai bạn. Trong Kinh Kính Mừng, chúng ta vẫn gọi Chúa Giê-su, Người Con Ruột của Đức Mẹ là “Con Lòng Bà”. Vậy bào thai mà hai bạn đang có đây là CON LÒNG HAI BẠN đấy. Có được phá không ? Cũng có nghĩa là có được giết chết không ? Hơn nữa, Chúa cho hai bạn gặp nhau là để làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ hay để hai người hợp tác giết người, dù cho đó là người bị phán đoán là thiếu hộp sọ đi nữa. Nhưng một bào thai bị thiếu hộp sọ không phải là người, còn hơn như vậy nữa: không phải là con của hai bạn sao ?

– … ( im lặng ).

– Ai cho phép hai bạn và cả các y bác sĩ nữa, có quyền quyết định bào thai được sống hay phải chết ? Nhân danh cái gì mà những con người cho mình quyền giết chết người vô tội ? Nhân danh cái gì ?

– … ( im lặng ).

– Nếu hai bạn bị bệnh hiểm nghèo, bị tật nguyền suốt đời, hai bạn có chấp nhận để cha mẹ mình thủ tiêu mình không ?

– ( Khóc )… Thưa cha không !

– Nếu ngày xưa, khi mang thai hai bạn, phát hiện hai bạn bị thiếu hộp sọ, cha mẹ hai bạn cũng nghe lời bác sĩ, quyết định hủy diệt con mình, nhưng vì một lý do nào đó mà quyết định ấy không thành, hai bạn vẫn có mặt trong đời. Bây giờ biết được sư ïthật ấy, hai bạn nghĩ gì ? Có buồn không ? Có hận không ? Có cảm thấy thương phận mình đã từng là một đứa con bị từ chối không ? Bạn nghĩ gì khi chính mình, chứ không phải ai khác, là một đứa con ra đời ngoài sự mong đợi của bố mẹ ? Đau đớn lắm, đúng không ?

– … ( im lặng ).

– Giả sử đứa con này bị thiếu hộp sọ, rồi đứa con thứ hai, đứa con thứ ba… tiếp tục bị thiếu hộp sọ. Không lẽ hai bạn cứ lần lượt nghe lời hết sức độc ác và vô lương tâm của bác sĩ, để rồi lần lượt bỏ hết đứa con này đến đứa con khác sao ? Ai cho phép làm điều ấy ?

Cha chỉ là người cố vấn thế thôi. Để hai vợ chồng yên tâm hơn, cha sẽ giới thiệu đến một Linh Mục khác, có kinh nghiệm trong lãnh vực Bảo Vệ Sự Sống hơn cha. Hơn nữa, ngài có nhiều bác sĩ Công Giáo cộng tác. Các bác sĩ của ngài sẽ giúp hai bạn hiểu vấn đề hơn…

 

Thế là tôi giới thiệu đôi vợ chồng trẻ ấy từ Bình Dương chạy xe về Sài-gòn ngay sáng hôm ấy để gặp cha Quang Uy và bác sĩ Lan Hải trong Nhóm BVSS Sài-gòn. Kết quả hết sức diệu kỳ như chúng ta đã thấy: Một Sự Sống mới được gìn giữ vẹn toàn !

 

  1. ĐỂ KẾT

 

Hội Thánh Công Giáo, từ ngàn xưa, đã có rất nhiều giáo huấn về việc Bảo Vệ Sự Sống. Vì thế, để kết cho bài viết này, tôi không đưa ra một ý kiến nào của bản thân, nhưng xin được trích một vài bản văn của Hội Thánh, với một ước mơ lớn, xem ra táo bạo, đó là: Kêu gọi lương tâm mọi người, không trừ ai, từ Ki-tô giáo, đến những người ngoài Ki-tô giáo; Từ người có tôn giáo đến người vô thần; Từ mọi cấp lãnh đạo trong đạo, ngoài đời, đến mọi thành phần dân chúng; Từ người trí thức đến người ít trí thức; Từ người lớn đến trẻ em…; rằng: HÃY TÔN TRỌNG SỰ SỐNG, TÔN TRỌNG QUYỀN SỐNG CỦA MỖI CON NGƯỜI, TỪ LÚC BẮT ĐẦU THÀNH THAI, ĐẾN LÚC RỜI BỎ CUỘC ĐỜI CÁCH TỰ NHIÊN.

 

Hội Thánh nhìn Sự Sống con người trong tương quan với Thiên Chúa:

– Ngay từ giây phút thụ tinh, Sự Sống của mỗi người phải được tôn trọng cách tuyệt đối, vì con người là thụ tạo duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính nó, và linh hồn của mỗi người được Thiên Chúa trực tiếp ban cho ( Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn Thị Ơn Ban Sự Sống, số 5 ).

 

– Hội Thánh ý thức quá rõ ơn gọi phải Bảo Vệ Con Người, chống lại tất cả những gì hủy diệt hay làm Sự Sống hư đi, bởi vì Con Thiên Chúa đã làm người, nên KHÔNG NGƯỜI NÀO MÀ KHÔNG PHẢI LÀ ANH EM CỦA NGƯỜI hay được gọi mời trở nên Ki-tô hữu và đón nhận Ơn Cứu Độ ( Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn về Phá Thai, số 1 ).

 

Chính vì mỗi một người bắt nguồn từ chính Thiên Chúa và là anh em với Con Thiên Chúa, Hội Thánhkhẳng định quyền của mình có ý kiến trên luật pháp các quốc gia, nhất là luật pháp về quyền bảo vệ luân lý, nhằm đấu tranh không ngừng, không mệt mỏi cho Sự Sống:

 

– Hội Thánh không có quyền trực tiếp trên pháp luật và trên các định chế được lựa chọn cách dân chủ và hoàn toàn tự do bởi các công dân của một quốc gia. Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh được Đấng Chí Thánh sáng lập trao phó, Hội Thánh công bố quyền được có ý kiến về các luật lệ dân sự và phân biệt rõ ràng những gì luật dân sự cho phép với những gì luân lý cho phép, nhất quán với một lương tâm trưởng thành ( Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, Diễn văn dịp tiếp tân đại sứ Bồ Đào Nha ngày 13.11.2000 )

 

Dựa vào những nghiên cứu khoa học, Hội Thánh xác định:

– Ngay từ khi trứng thụ tinh, một cuộc sống mới bắt đầu, không phải là cuộc sống của người cha hay người mẹ, mà là cuộc sống của một con người mới, nó có thể tự mình phát triển. Nó sẽ không bao giờ trở thành người, nếu nó không phải là người ngay từ lúc đầu. Điều hiển nhiên muôn thưở đó, đã được khoa di truyền học hiện đại xác nhận. Khoa di truyền cho thấy, ngay từ giây phút đầu tiên, chương trình phát triển trong tương lai của sinh thể đó đã được định đoạt: một con người, một con người cá biệt với những đặc tính đã được xác định rõ ràng. Cuộc phiêu lưu của Sự Sống trong một con người bắt đầu ngay từ lúc thụ tinh, với thời gian, các khả năng to lớn của Sự Sống sẽ lần lượt xuất hiện và sẵn sàng hoạt động ( Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn về Phá Thai, số 12 -1 3 ).

 

Do Sự Sống là một huyền nhiệm cao cả, có một tương quan lớn không thể tả với Đấng Sáng Tạo và Cứu Độ, nên:

– Người ta không thể chỉ không chấp nhận việc phá thai, nhưng cần thiết hơn, PHẢI CHỐNG LẠI NHỮNG NGUYÊN CỚ GÂY RA TỆ NẠN NÀY… ( Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn Chống Phá Thai Cố Ý, số 26 ).

– Không một người nào, kể cả cha hoặc mẹ của đứa bé, có quyền thay thế đứa bé, ngay cả khi nó chỉ là một bào thai, để chọn, để nhân danh nó, cái quyết định không để cho nó được sống ( Bộ Giáo Lý Đức Tin Tuyên Ngôn về Phá Thai, số 14 ).

 

Chính vì ý thức tính cao cả vô cùng của Sự Sống như những gì đã nói, Hội Thánh dạy:

– Tất cả chúng ta cùng cảm thấy bổn phận loan báo Tin Mừng Về Sự Sống, tôn dương Tin Mừng này trong Phụng Vụ và trong cả cuộc sống, phục vụ Tin Mừng này bằng nhiều sáng kiến và nhiều tổ chức có mục đích yểm trợ và cổ võ Tin Mừng này ( Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, Thông Điệp Tin Mừng Về Sự Sống, số 79 ).

 

Hội Thánh phán quyết hành vi phá thai và cộng tác vào việc phá thai là một tội ác nghiêm trọng:

– Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một TỘI ÁC. Giáo huấn ấy bất biến, không hề thay đổi. Trực tiếp phá thai, dù là mục đích hay phương tiện, đều vi phạm nghiêm trọng luật luân lý ( Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2271 ).

 

– Cộng tác vào chính việc phá thai là một LỖI NẶNG. Theo Giáo Luật, Hội Thánh ra VẠ TUYỆT THÔNG cho kẻ phạm tội này. “Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả, thì mắc vạ tuyệt thông tiền kết” ( Giáo Luật, số 1398 ), do chính hành vi phạm tội và theo những điều kiện đã được Giáo Luật dự liệu ( Giáo Luật, số 1323-1324 ). Như thế, Hội Thánh không có ý giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng muốn nhấn mạnh tính cách nghiêm trọng của tội ác đã phạm, sự thiệt hại không sửa chữa được đã gây ra cho trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ của em và cho toàn xã hội ( Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2272 ).

 

Tất cả chúng ta, không trừ ai, đều có nghĩa vụ vâng lời Hội Thánh, cùng Hội Thánh, Bảo Vệ Sự Sống con người, bảo vệ những bào thai chưa kịp sinh ra. Chúng ta hãy gào to, gào nữa, gào mãi: Xin đừng giết thai nhi ! Xin đừng giết thai nhi ! Hãy gào đến khi nào tiếng gào ấy thấu lương tâm nhân loại, thấu lương tâm từng người.

 

Lm. VŨ XUÂN HẠNH, Giáo Phận Phú Cường

Nhiệm Vụ Của Cha Giải Tội Khi Có Người Xưng Tội Phá Thai

* Đây là một tài liệu hướng dẫn cho các linh mục giải tội (TÒA TRONG) liên quan đến những vấn đề PHÁ THAI VÀ THA VẠ TUYỆT THÔNG KHÔNG DÀNH CHO TÒA THÁNH.

Chúng tôi xin giới thiệu tài liệu và đánh giá cao tài liệu của Linh mục rất hữu ích:

1 – Tài Liệu giúp cho các linh mục giải tội và tha vạ. Linh mục làm mục vụ không phải chỉ là quan tòa cứ luật mà phán quyết, mà còn thể hiện LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT HỐI NHÂN THÀNH THẬT SÁM HỐI, GIAO HÒA VỚI CHÚA, VỚI GIÁO HỘI QUA BÍ TÍCH HÒA GIẢI.

2 – Mặt khác, HỐI NHÂN BIẾT CẦN PHẢI LÀM GÌ ĐỂ VỊ ĐẠI DIỆN CHÚA GIÚP HỌ ĐƯỢC ƠN THÁNH HÓA VÀ BÌNH AN LƯƠNG TÂM TRONG XÃ HỘI HÔM NAY DỄ RƠI VÀO CẠM BẪY PHẢI PHÁ THAI.

* Tuy nhiên, có một vài vấn đề còn chưa rõ ràng. Có nên chăng cần giải thích và cho ví dụ cụ thể để dễ hiểu hơn?

1 – “PHÁ THAI” có thể hiểu luôn “PHÁ BÀO THAI”, VÌ TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY CÓ NHIỀU KIỂU NÓI TRÁNH NÉ TỪ “PHÁ THAI”: ĐỔI THÀNH “ĐIỀU HÒA KINH NGUYỆT”.

2 – Cha GIUSE TRẦN NGỌC TÍN viết như sau (xin trích):

* “Phá thai thành công (có hiệu quả)

Khi phá thai có hiệu quả, thì cũng có 2 trường hợp:

* Hiệu quả ngẫu nhiên.

Nếu hiệu quả của việc phá thai là ngẫu nhiên, tội phạm phá thai được coi là không hoàn thành, và người phá thai cũng chỉ phạm tội phá thai mà thôi. Vì thế, khi họ ăn năn sám hối, thì cha giải tội phải giải tội cho họ.

* Hiệu quả như ý.

Nếu người phá thai tìm đủ mọi phương thế để thực hiện việc phá thai, phải phá thai với bất cứ giá nào, và đã thành công trong việc phá thai, như vậy tội phạm phá thai đã hoàn thành.”

* Chúng tôi thấy khó hiểu cụm từ “Hiệu quả ngẫu nhiên” trong văn mạch “Phá thai thành công (có hiệu quả)”. Xin cho biết có giáo luật nào hay chú giải theo xu hướng nào để khẳng định như vậy không? Hay đây là trường hợp “MỘT HÀNH ĐỘNG SONG HIỆU”?.

3 – Xin trích: “Hoàn cảnh gia trọng (đ. 1326, §1).

Nếu người phá thai ở trong hoàn cảnh gia trọng, tức là đã trên 18 tuổi trọn (theo cách tính của Giáo Luật), họ đã phạm tội phá thai và ngay tức khắc họ bị vạ tuyệt thông tiền kết không dành cho Tòa Thánh (đ. 1398). Nếu họ hết ngoan cố, thì cha giải tội giải vạ tuyệt thông cho họ trước, rồi sau đó mới giải tội phá thai”.

MỘT SỐ VẤN NẠN:

a/ Khi hối nhân đi xưng tội, một trong những điều kiện căn bản để lãnh bí tích hòa giải là “DỐC LÒNG CHỪA”. Thử hỏi điều kiện “nếu họ hết ngoan cố” là khi họ thật lòng sám hối ăn năn và DỐC LÒNG CHỪA lúc họ xưng tội có đủ để giải tội và giải vạ không?.

b/ Trường hợp: một nữ bác sĩ, y tá “chuyên phá thai”. “Nếu họ hết ngoan cố”, thì dựa trên thể hiện hành vi nào của họ để cha giải tội cần đánh giá họ “hết ngoan cố phá thai”?.

c/ Trong một số vùng dân tộc, y tế nhà nước bắt phải phá thai để hạn chế sinh sản, ví dụ chỉ đẻ 2 con, hoặc công nhân viên nhà nước trong trường hợp đó phải phá thai khi có thai đứa con thứ 3. Nhiều lần họ cũng phải làm như vậy. Trong trường hợp này, thử hỏi có nằm trong trường hợp : “ngoan cố” phá thai không?.

d/ Giải quyết “TÒA TRONG” (trong trường hợp giải tội, cho từng hối nhân, trong điều kiện hoàn cảnh đặc thù). Nhưng thường các hối nhân trao đổi với bạn bè sau khi xưng tội. Vậy, có ảnh hưởng đến GƯƠNG MÙ TRONG TÌNH TRẠNG XÃ HỘI NGÀY HÔM NAY, ĐỂ RỒI HỐI NHÂN AN TÂM “XƯNG TỘI PHÁ THAI”, TẠO NÊN TIỀN LỆ DỄ DÀNG VIỆC PHÁ THAI, VÌ ĐA PHẦN CHO RẰNG XƯNG TỘI, ĐƯỢC GIẢI TỘI LÀ XONG CHUYỆN?

THIẾT NGHĨ: Tài liệu của Lm. của LM GIUSE TRẦN NGỌC TÍN về “NHIỆM VỤ CỦA CHA GIẢI TỘI KHI CÓ NGƯỜI XƯNG TỘI PHÁ THAI” rất hữu ích và quí giá. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi xin phép thêm phần mục vụ trong năm Tân Phúc Âm hóa Giáo xứ buôn làng, Năm thánh hiến như sau:

1- Linh mục giải tội dĩ nhiên thông suốt và có lòng lo mục vụ cho cá nhân và cho giáo xứ.

2- CẦN GIÁO DỤC ĐỨC TIN, ĐẠO ĐỨC, GIÁO LÝ TRONG GIÁO XỨ VỀ VIỆC “PHÁ THAI – VẠ TUYẾT THÔNG” CHO RÕ RÀNG VÀ CÒN ĐỂ Ý ĐẾN “TÒA NGOÀI” NỮA.

3- Cha giải tội không thể giải thích hết và trọn vẹn trong khi giải tội, đặc biệt vấn đề phá thai, vì thực tế Giáo phận Kontum, nhất là giải tội cho người dân tộc số lượng quá đông không có đủ thời gian để khuyên nhủ. Nên chăng, trước giờ giải tội, có nghi thức SÁM HỐI CHUNG, KHI ĐÓ HƯỚNG DẪN THÊM NHỮNG ĐIỀU CĂN BẢN VỀ VẤN ĐỀ PHÁ THAI, NHƯ PHẦN BỔ TÚC GIÁO LÝ VỀ VẤN ĐỀ NÀY.

4- Bí tích Hòa Giải ban Ơn Thánh và là phương thuốc chữa trị cho từng hối nhân cũng như cho cả cộng đoàn giáo xứ. Nên chăng ngoài buổi học giáo lý, còn tổ chức Giờ Chầu Thánh Thể cầu nguyện cho các gia đình Ly Dị, Phá Thai và bất ổn trong gia đình v.v…, chưa nói cổ võ có những đoàn thể tông đồ giáo dân quan tâm gia đình.

Vậy, một lần nữa, chúng tôi xin giới thiệu và mong mọi người cần suy nghĩ PHẦN TRÌNH BÀY CỦA LM GIUSE TRẦN NGỌC TÍN: “NHIỆM VỤ CỦA CHA GIẢI TỘI KHI CÓ NGƯỜI XƯNG TỘI PHÁ THAI”, vì liên quan đến đời sống tâm linh, sự an bình của mọi người và của mọi gia đình trong xã hội hôm nay.

GPKONTUM (16/04/2015) KONTUM

TÔN TRỌNG SỰ SỐNG

Xét về khía cạnh xã hội và tâm lý, hiện tượng phá thai đã gia tăng rất nhiều trong xã hội hôm nay .

Luật pháp nhiều quốc gia đã cho phép trong vài trường hợp chủ động ngưng sự thai nghén (IVG). Ở đây chúng ta không xem xét vấn đề luật pháp như thế có hợp pháp hay không đối với lương tâm công giáo.

Các nghiên cứu cho thấy hiện tượng phá thai liên quan đặc biệt đến những phụ nữ trẻ cô đơn, và có khi những phụ nữ có khó khăn trong đời sống lứa đôi hay đang chia tay với người bạn trai bị tan vỡ, những phụ nữ không đi làm việc…..  Những động cơ đưa đến IVG (chủ động ngừng mang thai)  thì nhiều : lo sợ cho sức khỏe người phụ nữ, đứa bé dị tật, lo sợ mang thai (nhất là do tai nạn), khó khăn kinh tế và tài chính, lứa đôi tạm bợ, cô đơn, hay những lý do khác từ người đàn ông (hiếp dâm, loạn luân, ngoại tình ….)

Trước hết phải chú ý nhiều đến các động cơ này và cố gắng hiểu ý nghĩa của nó. Phần đông những yêu cầu phá thai có giá trị kêu gọi, làm tín hiệu, lời nói. Cần lắng nghe người phụ nữ và những lứa đôi một cách nhân từ và họ phải tìm cơ hội để được lắng nghe. Một người đàn bà không muốn mang thai nữa đòi hỏi gì ? Bà ấy đã gặp vấn đề gì trong đời mình, trong đời sống lứa đôi, trong gia đình của mình, với các con của bà, với căn tính của mình, với cái thai của mình ? Trong nỗi lo lắng của bà, bà tìm được giải pháp nào ?

Các nghiên cứu ở nhiều quốc gia làm người ta quan tâm đến hậu quả nghiêm trọng của sự phá thai nơi những người phụ nữ đã chọn giải pháp đó : tình trạng trầm uất, suy sụp với cảm giác tội lỗi, hung hăng bạo động chống chính mình, chống lại cha đứa trẻ, chống gia đình hay người nào khác, cảm giác cô đơn, khép kín, cay đắng …. Ở những mức độ này, sự phá thai đã là một vấn đề lớn .

Khía cạnh đạo đức

Vấn đề phá thai cũng dẫn đến một suy nghĩ đạo đức có tính chất triết lý và thần học, về qui định của bào thai con người lúc được thụ thai. Những người bênh vực sự phá thai hồ nghi về tính chất con người của phôi thai vài ngày tuổi và ngay cả bào thai vài tuần tuổi. Họ nêu lên một loạt câu hỏi : khi nào phôi thai được xem là một con người ? phôi thai có phải là con người không ? Câu hỏi vẫn còn đó !

Không có một tiêu chuẩn nào để dựng nên một giới hạn giữa đời sống “không là người” và đời sống “là người” trong quá trình phát triển phôi thai thành một con người. Trong quá trình này, mỗi giai đoạn có sự quan trọng của nó và là điều kiện thiết yếu cho giai đoạn tiếp theo. Trứng được thụ tinh đã tức khắc mang sinh khí sống động của một đời sống con người và dẫn đưa nó đến mức viên mãn sự hiện hữu của mình.Trong khi tiến triển, nó đã là con người mà nó được kêu gọi trở thành. Người ta có thể nói nó là một con người nguyên vẹn, riêng biệt hay không ? Tuy nhiên, giá trị duy nhất và bí ẩn của nó đòi hỏi phải được nhìn nhận, nâng đỡ đến lúc nhân cách của nó hoàn toàn phát triển.

Đạo đức công giáo đề cập đến những suy nghĩ như trên, sau cùng dựa vào niềm xác tín Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Người (St 1, 26) . Niềm xác tín này là nền tảng của đạo lý Kinh Thánh. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa. Nó phải được nhận và sống như một món quà tình yêu của Thiên Chúa.

Cái nhìn về con người như thế đã ăn sâu vào Đức Giêsu. Ngài đã tỏ rõ nơi Ngài giá trị vô tận của mọi con người. Nơi Đức Kitô, con người được Thiên hứa kêu gọi sống lại và được dự vào sự sống viên mãn đời đời và vào tình yêu của Thiên Chúa như một người con. Vì vậy, từ cõi đời này, con người xứng đáng được tôn trọng tuyệt đối. Cách nhìn như vậy sẽ chiếu sáng trên mọi cuộc sống mới bắt đầu và những mầu nhiệm của sự ra đời . Thiên Chúa đang vào việc. Công việc của Người là đáng tôn trọng vô cùng.

Những suy nghĩ thuộc về Kinh Thánh này giải thích rộng rãi tại sao Giáo hội luôn lên án sự phá thai trong suốt quá trình lịch sử. Mặc dù chẳng may ngày nay ta nhận thấy vài sự khác biệt giữa các Giáo hội về tính chất tuyệt đối hay không của sự cấm phá thai. Ví dụ : những người Tin lành và những tín đồ Giáo hội Anh giáo nghĩ rằng trong vài trường hợp, tiếp tục để bào thai phát triển là làm mất nhân tính hơn là ngưng nó. Trong quan điểm đó, vài người công giáo đồng tình với họ. Giáo quyền Rôma có khuynh hướng cho rằng sự sống của đứa bé đang được mang thai phải ưu tiên được kính trọng, khi có tranh chấp những giá trị cần chọn lựa, trừ trường hợp tính mạng người mẹ bị đe doạ.

Kết luận

Đời sống xã hội dựa vào một số giá trị. Trong số những giá trị căn bản này, sự liên đới – có nghĩa là đón nhận, thừa nhận và thăng tiến con người – chiếm vị trí hàng đầu, ngang hàng với sự sống con người – có nghĩa là nhìn nhận từng con người với phẩm chất nam hay nữ của nó.

Để tổ chức xã hội, một nhóm người tự đề ra lề luật bảo đảm tôn trọng quyền của mỗi con người. Trong đó có quyền được sống. Nhà nước phải cam kết bảo vệ sự sống đồng đều cho mọi công dân và lập ra luật pháp theo chiều hướng ngày càng gia tăng tính nhân bản trong các mối quan hệ  giữa người với người. Nhà nước phải có biện pháp hữu hiệu chống lại “dịch” phá thai như : chính sách nhà ở, trợ cấp gia đình, giúp đỡ các bà mẹ độc thân, luật cho phép xin con nuôi ….

Tiến bộ thật sự là tiến bộ giúp người đàn ông và đàn bà có cuộc sống khá hơn. Chất lượng của cuộc sống cá nhân không được tạo ra bằng cái chết của một người khác. Để sống tốt hơn, cả hai phải biết nỗ lực cùng đón nhận nhau và sáng tạo cho nhau. Điều này đòi hỏi sự thay đổi cơ cấu xã hội. Phải loại bỏ mọi nguyên nhân đưa đến yêu cầu phá thai. Cũng vậy, phải có những biện pháp thật sự hữu hiệu để giúp người phụ nữ đảm nhận trách nhiệm làm mẹ. Cần khẩn cấp chọn các biện pháp thực tiễn để giải quyết các tình huống tuyệt vọng hơn là miễn tố sự phá thai. Điều này cần có sự thay đổi não trạng về phía cá nhân cũng như cộng đồng.

Khi yêu nhau, người đàn ông và người đàn bà khám phá ra thế giới của lòng tốt, của sự không tính toán. Họ có kinh nghiệm về những quan hệ xã hội dựa trên tình yêu. Điều đó làm họ không khép mình lại nhưng mở ra để đón nhận đứa bé chào đời. Tình phụ tử, mẫu tử  và quan hệ cha mẹ con cái là nền tảng của đời sống xã hội . Nhiệm vụ của người công giáo là khuyến khích mọi người đi và con đường trách nhiệm của mình. Nhiệm vụ đó cũng đòi hỏi biết lắng nghe, thông tin, nâng đỡ tinh thần những con người kém ý chí, những con người gặp quá nhiều khó khăn. Nếu ta biết lắng nghe những người đàn ông và đàn bà đang tuyệt vọng, ta có thể giúp họ có một quyết định tốt hơn chăng ?

 

http://www.maxreading.com

35 năm sau ngày Ðạo Luật Cho Phép Phá Thai tại Hoa Kỳ người Việt hải ngoại học được bài học gì?

Con người ngày nay đang phải đương đầu với rất nhiều những khó khăn từ mọi phía: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, hôn nhân, gia đình, và tôn giáo. 35 năm nhìn lại kết quả của Ðạo Luật Cho Phép Phá Thai tại Hoa Kỳ, cũng là dịp để cho người Việt khắp nơi trên thế giới nhìn lại những giá trị truyền thống gia đình, luân lý, và đạo đức với hy vọng có thể cứu vãn và duy trì được những giá trị này cho các thế hệ mai sau.

Khi nói đến các thế hệ mai sau, vì theo tâm lý xã hội, thế hệ thứ nhất của các sắc dân di dân thường có khuynh hướng chối bỏ cội nguồn, và hăm hở bước vào dòng chính của xã hội mà mình đang cư ngụ. Ðiều này dễ hiểu, vì định luật sống còn không cho phép họ cứ mãi luẩn quẩn và lo lắng về những gì mà họ đã mất, hoặc bắt buộc phải bỏ đi. Thí dụ, khi những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi, tức là chúng ta đã bỏ lại đàng sau quê hương, và tất cả những giá trị văn hóa và tinh thần ở lại Việt Nam. Mà vì phải tranh đấu để sống còn với xã hội và môi trường mới, nên chúng ta bắt buộc cách này hay cách khác phải quên, và phải bỏ lại sau lưng để mà tiến lên, và đi vào dòng chính của cuộc sống mới.

Tuy nhiên, có những điều mà chúng ta có thể quên hoặc bỏ lại sau lưng vì nhu cầu và sự sống còn nơi xã hội và môi trường mới. Nhưng có những điều mà nếu chúng ta bỏ quên hoặc để mất đi thì sẽ không bao giờ có cơ hội để lấy lại. Thí dụ, những giá trị của nền văn hóa, luân lý và đạo đức của chính mình. Mà một trong những vẻ đẹp cao quí của truyền thống văn hóa Việt Nam có lẽ là tình mẫu tử, và vai trò làm cha, làm mẹ trong đời sống hôn nhân gia đình. Ðiều này, do ảnh hưởng của những nền văn minh mới nơi tạm dung, hoặc do vì thiếu ý thức trách nhiệm, phần lớn các phụ huynh đang sao nhãng, và thiếu sót. Và điều này cũng liên quan đến đề tài đang được trình bày nhân dịp những người ủng hộ và phò sự sống đang muốn đặt vấn đề và nhìn lại sau 35 năm luật pháp Hoa Kỳ cho phép phá thai.

NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ:
(Tài liệu được trích dẫn từ truyền đơn được phổ biến do Y07 Heritage House’, Inc. and its licensors 800–040 Item no. 9945YA www.hh.com 08-01-07)

Kể từ ngày 22 tháng 1 năm 1973, Tối Cao Pháp Viện qua vụ án Roe vs Wade hợp pháp việc phá thai tại Hoa Kỳ, tính đến nay:

– Có khoảng 50 triệu thai nhi đã bị giết. 1
– Trung bình cứ 3 em bé sinh ra thì có 1 em bé bị giết. 2
– Tính đến tuổi 45, có khoảng 1/3 phụ nữ Hoa Kỳ đã một lần phá thai. 3
– Phụ nữ phá thai gồm 43% thuộc các giáo phái Tin Lành, và 27% Công Giáo. 4
– 1% những vụ phá thai là do người mẹ bị hiếp dâm, 0.5% là vì loạn luân. 5
– Quan niệm chung về phá thai, 70% phụ nữ Hoa Kỳ cho rằng cần phải nghiêm khắc, trong khi đó 53% nói rằng luật cho phép phá thai cần được duy trì. 6
– Toàn 50 tiểu bang cho phép phá thai cho đến khi trước ngày sinh.

Tổng số các thai nhi bị giết tính theo mỗi năm

Năm              Con số phá thai         Tổng cộng

1973              766.938                     766.938
1974              925.558                  1.692.496
1975           1.065.226                  2.757.722
1976           1.214.679                  3.972.401
1977           1.356.201                  5.328.602
1978           1.451.888                  6.780.490
1979           1.542.631                  8.323.721
1980           1.600.517                  9.923.638
1981           1.624.619                 11.548.257
1982           1.621.117                 13.169.374
1983           1.622.250                 14.791.624
1984           1.624.516                 16.416.140
1985           1.636.258                 18.052.398
1986           1.621.220                 19.673.618
1987           1.605.873                 21.279.491
1988           1.638.524                 22.918.015
1989           1.613.907                 24.531.922
1990           1.656.858                 26.188.780
1991           1.603.195                 27.791.975
1992           1.574.767                 29.366.742
1993           1.539.850                 30.906.592
1994           1.465.690                 32.372.282
1995           1.400.182                 33.772.464
1996           1.400.965                 35.173.429
1997           1.375.050                 36.548.479
1998           1.358.570                 37.907.049
1999           1.353.420                 39.260.469
2000           1.352.380                 40.612.849
2001           1.342.090                 41.954.939
2002           1.331.790                 43.286.729
2003           1.325.610                 44.612.339
2004*         1.325.610                 45.937.949
2005*         1.325.610                 47.263.559
2006*         1.325.610                 48.589.169
2007*         1.325.610                 49.914.779

Tính trung bình trong 35 năm qua, năm 1990 là năm mà số phụ nữ phá thai lên cao nhất với 1.656.858 vụ. Cũng theo thống kê, thì kể từ năm đó, con số những vụ phá thai giảm chừng 20%.

Trên đây là những con số được ghi nhận bằng thống kê chính thức, còn những vụ phá thai lén lút được thực hiện tại những phòng mạch tư, vụng trộm mà không được ghi nhận hẳn là sẽ còn cao hơn nhiều. Ngoài Hoa Kỳ ra, còn có bao nhiêu vụ phá thai hằng ngày vẫn thường xẩy ra trên thế giới, và ngay cả trên quê hương Việt Nam? Phá thai đã trở thành một đại họa trên thế giới, và lương tâm nhân loại.

 

NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI THÌ SAO?

Người Việt tỵ nạn, cách riêng những người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Hoa Kỳ thì sao? Ảnh hưởng của nền văn hóa và môi trường mới có tạo nên khủng hoảng tâm lý này trong đời sống hôn nhân gia đình, và trong lối sống và suy nghĩ về luân lý đạo đức hay không?

Trong những cuộc khảo cứu về người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ, chưa thấy những thống kê chuyên nghiệp và đầy đủ về ly dị và phá thai. Nhưng dựa vào nhận xét của một bác sỹ sản phụ khoa hành nghề lâu năm tại Bệnh Viện Fountain Valley, nơi có nhiều sản phụ Việt Nam nhất Orange County, California cho biết, thì “người Việt Nam phá thai nhiều hơn đẻ”.

Ðể có thêm dữ kiện thực hiện bài viết này, chúng tôi đã phỏng vấn cô Nancy Nhung Phan, Giám Ðốc Chương Trình Cứu Mạng Thai Nhi (Viet Pro-Life) thuộc Giáo Phận Orange, thì được cô cho biết như sau:

Hiện nay tại Orange County, thủ phủ người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ, có ít nhất 2 chương trình phá thai miễn phí được quảng cáo trên báo chí Việt ngữ. Và tính trung bình chỉ 1 trung tâm thôi con số những phụ nữ Việt Nam đến để phá thai có khoảng chừng 500 vụ mỗi tháng.

Riêng Chương Trình của cô, một chương trình nhằm ngăn chặn ý định muốn phá thai và đồng thời hỗ trợ những phụ nữ Việt Nam muốn giữ lại con mình, thì mỗi tháng chỉ nhận được tối đa khoảng 20 cú phôn xin tư vấn và giúp đỡ. Tuy nhiên, vẫn theo cô Nancy Nhung thì trong số những phụ nữ gọi vào Chương Trình, chỉ có 1 hoặc 2 trường hợp từ bỏ ý định phá thai. Số còn lại, theo cô là họ đã phá thai.

Khi được hỏi số tuổi trung bình những người gọi vào Chương Trình, cô Nancy Nhung Phan cho biết, họ ở tuổi trung bình từ 18 đến 43, và đa số là những phụ nữ có trình độ học thức ở bậc Trung Học và mới tới Hoa Kỳ. Những thành phần học thức và đã ở Hoa Kỳ lâu hoặc sinh ra tại Hoa Kỳ, vẫn theo cô Nancy Nhung, họ rất ít khi gọi vào Chương Trình của cô. Một điều mà cô cho là rất đau lòng, đó là phần đông những phụ nữ ấy lại là người Công Giáo.

Không khí của nền văn hóa sự chết đã lan tỏa đến sinh hoạt tâm linh và văn hóa của người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Quan niệm và truyền thống văn hóa người Việt vẫn coi trọng và đặt nặng giá trị về luân lý và đạo đức gia đình. Một trong những điểm nổi bật nhất của những giá trị truyền thống đó là việc sinh thành và dưỡng dục con cái. Gia đình nào không có con, hoặc ít con thường được coi như kém may mắn. Nhưng ngược lại, với ảnh hưởng và trào lưu mới, vấn đề con cái đang được đặt lại, và vì thế, nhiều người Việt Nam đã bị ảnh hưởng một cách trầm trọng. Có lẽ hơn bao giờ hết, câu ca dao tục ngữ: “Con là nợ, vợ là giây oan”, đang từ trở thành một thực tế hết sức phũ phàng.

 

ÐÂU LÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN?

Tại sao lại phá thai? Người ta phá thai vì những lý do gì? Tài liệu trích dẫn ở trên đã cho thấy chỉ có 1% những vụ phá thai ở Hoa Kỳ là người phụ nữ bị hiếp dâm và không muốn giữ lại bào thai đó. Và cũng chỉ có 0.5% những vụ phá thai liên quan đến hành động loạn luân, tức là con gái có thai với bố, hoặc em, chị gái có thai với anh, hay em trai mình. Còn lại, tất cả đều do những giao du tình dục ngoài hôn nhân, trong hôn nhân mà người quyết định chấp nhận phá thai là những người cha, người mẹ tương lai.

Một điều hết sức phi lý và như diễu cợt, khi hàng loạt bác sĩ, y tá, và những chuyên viên y tế cố gắng cứu sống cho một con vịt, một con chó, hoặc một con cá voi sa lầy, hoặc bị thương trong khi đó lại giết chết hàng triệu những thai nhi mà chỉ một hoặc vài ngày nữa là các em được nhìn thấy ánh sáng mặt trời.

Một điều cũng hết sức phi lý và khó hiểu khi các bác sĩ chuyên khoa, các y tá và các nhân viên ý tế cố gắng để cứu cho một bệnh nhân đang thoi thóp trên giường bệnh chờ chết, nhưng lại mau mắn, nhanh nhẹn giết chết hàng triệu triệu những thai nhi đang sống động, đầy sức sống và tương lai ngay trong bụng mẹ của các em. Người viết đã có lần được xem một số hình ảnh trên internet về hành động phá thai và giết người ghê tởm của một nhóm người tại Hoa Lục. Thai nhi bị giết, bị trục ra khỏi lòng mẹ, và người ta chiên cái đùi em bé rồi cầm lấy cắn mà ăn như ăn một cái đùi gà. Bên cạnh đó, là một số chai lọ ngâm những em nhỏ khác dùng để làm rượu bổ. Lương tâm con người ở vào thời đại văn minh tân tiến như hiện nay không lẽ lại u mê và chai lỳ đến thế sao? Ảnh hươởng của nền văn hóa sự chết mà Ðức Gioan Phaolô II nói đến phải được hiểu một cách trực tiếp liên quan đến hành động phá thai và những đạo luật cho phép phá thai hiện nay trên thế giới.

Cách đây khoảng 20 năm, ảnh hưởng của phá thai còn được coi là một hội chứng tâm lý. Theo đó, người mẹ phá thai thường bị nhiều uẩn ức, dằn vặt, và dồn nén nhiều năm, nhưng ngày nay, ảnh hưởng này không được coi là một hội chứng tâm lý nữa. Ngoài ra, nó chỉ được coi như một phản hứng hoàn toàn thể lý, và không để lại một dấu ấn gì trong tâm trí của phần đông người phụ nữ phá thai. Vì thế, nhiều người không những chỉ phá thai một lần, mà là nhiều lần.

1. Vấn đề con cái**

Theo tài liệu được Ðại Học New Jersey phổ biến liên quan đến thái độ về con cái của những cặp vợ chồng người Hoa Kỳ. Theo đó, con số những người bước vào đời sống hôn nhân mà không có con hoặc sinh con trễ đang mỗi ngày một nhiều.

Thế hệ của những người trên 50 tuổi, vấn đề con cái là một phần quan trọng trong đời sống hôn nhân gia đình, và có con sau khi lập gia đình là một việc hệ trọng. Ở vào thế hệ cha ông chúng ta, hễ lập gia đình sau một năm mà không có con là bị cho là có vấn đề. Ngược lại, đối với thế hệ trẻ, thì con cái không phải là việc quan trọng, và do đó, những cặp vợ chồng lấy nhau mà không có con càng ngày càng đông. Ðối với nhiều người, có con không phải là một vấn đề hấp dẫn và tạo hạnh phúc. Ngược lại, con cái chính là một ngãng trở hạnh phúc hôn nhân của họ. Vì việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái gần đây đang trở thành đề tài tranh cãi của nhiều cặp vợ chồng.

Vẫn theo thống kê trên, nhiều phụ nữ cho rằng họ chỉ sẵn sàng có con khi hoàn cảnh thuận lợi, và tương lai bảo đảm rằng việc có con là một cái gì đem lại hạnh phúc. Và nếu họ chờ đợi cơ hội thuận lợi lâu quá, thì phần lớn họ sẽ không nghĩ đến việc sinh con nữa. Ðối với những người chủ trương không con, thì có con cũng không phải là lý do giữ được vợ chồng khỏi ly dị. Vì thế, những ai có tư tưởng ly dị, phần lớn đều cố tránh phải có con. Thống kê cho biết:

– Năm 1960, có 71% phụ nữ có con sau 3 năm đầu kết hôn. Năm 1990, con số này giảm xuống chỉ còn 37%. Ðiều này cho thấy, khuynh hướng không có con đang tăng vọt trong những cặp vợ chồng sau khi cưới nhau.

– Năm 1970, số tuổi trung bình của phụ nữ khi kết hôn là dưới 21. Ngày nay, tuổi trung bình của phụ nữ khi kết hôn là 26 tuổi. Ðối với những phụ nữ có bằng cấp 4 năm đại học, số tuổi này dĩ nhiên cao hơn.

– Năm 1970, có 73.6% phụ nữ tuổi từ 25-29 đã có con và có ít nhất một con nhỏ đang sống với họ. Năm 2000, con số này giảm xuống còn 48.7%. Ðối với nam giới cùng tuổi, năm 1970 có 57.3% sống với con. Năm 2000 giảm xuống còn 28.8%.

– Năm 1970, có 27.4% phụ nữ và 39.5% đàn ông thuộc lứa tuổi 50-54 có ít nhất một con tuổi vị thành niên sống trong gia đình. Năm 2000 chỉ còn 15.4% và 24.7%.

Phụ nữ không muốn có con ngày càng gia tăng. Năm 1976, có khoảng 1/10 phụ nữ không muốn có con, đến năm 2004, con số này tăng lên đến 1/5.

Thống kê cũng cho thấy, con số các gia đình có con cũng giảm dần từ Ệ ở năm 1960, đến nay lên đến 1/3, một tỷ lệ được coi là thấp nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ.

2. Lý do bào chữa**

Trước đây thời gian có con sau khi lập gia đình thường là ngắn sau khi tốt nghiệp và sau thời gian lập gia đình. Một số ít sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ học thêm lên; nhưng phần đông sẽ kiếm một nghề rồi lo kết hôn và sinh con cái. Thời gian dành cho việc sinh sản, nuôi nấng, và giáo dục con thường kéo dài đến khoảng 50 hoặc 60 tuổi. Khi về hưu ở tuổi 65 là lúc người ta an hưởng đúng nghĩa. Nghỉ ngơi không bận rộn công việc và an vui với con, cháu.

Hiện nay số người ở tuổi 50-60 mà muốn có cháu đang từ từ tăng dần, vì con họ không lập gia đình, mà nếu lập gia đình thì lại không muốn sinh con, hoặc có con quá trễ. Thí dụ, một thanh niên trên 30 tuổi mới lập gia đình, và chờ đến khoảng 35 hoặc hơn nữa mới có con, nên kết quả là ông bà ở tuổi 50 hoặc 60 vẫn không có cháu bế.

a) Cá nhân chủ nghĩa.

Thời gian dành cho riêng mình trước và sau kết hôn đã tăng vọt. Những cặp vợ chồng không con được coi là may mắn và hạnh phúc. Ngược lại, con cái đối với nhiều người và nhiều cặp vợ ngày nay được gói gọn trong câu: “Con là nợ, vợ/chồng là oan gia”. Một hình thức không muốn có con. Truyền thống văn hóa Việt Nam với việc đông con nhiều cháu đang từ từ trở nên lỗi thời.

Ðời sống không con, ngày nay bắt nguồn từ quan niệm như một đời sống dành cho chính mình. Một đời sống chú tâm vào cái tôi, và được coi là lối sống ích kỷ của cá nhân chủ nghĩa.

Ngoài ra, việc mang thai, sinh nở đối với nhiều phụ nữ ngày nay còn mang ý nghĩa tự quyết: thân xác tôi, tôi có quyền quyết định. Ngừa thai, phá thai theo quan niệm của những phụ nữ này cũng nằm trong quan niệm đó.

Trước đây được làm cha mẹ là một vinh dự, hạnh phúc lớn lao. Nhiều phụ huynh không ngại hy sinh tất cả vì con cái. Vất vả, lo lắng và hy sinh bản thân mình miễn sao con cái an vui, hạnh phúc là mình thấy hạnh phúc. Nhưng quan niệm ấy ngày nay đang từ từ thay đổi. Hình ảnh những cha mẹ hy sinh cho con cái đang lu mờ, trước hình ảnh những đôi vợ chồng trẻ dành thời giờ tại các phòng trà, các câu lạc bộ, các cuộc du hý và du lịch. Ðó là chưa kể đến hằng chục triệu thai nhi mỗi năm bị chính cha mẹ mình giết bỏ trước khi chúng được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, vì cha mẹ chúng không muốn mang trách nhiệm, và không muốn hy sinh.

b) Trốn tránh trách nhiệm giáo dục.

Việc giáo dục con cái ngày nay cũng là một ngãng trở và đã khiến nhiều phụ huynh không muốn có con hoặc không muốn có nhiều con. Những trẻ em ngày nay mang các hội chứng như tâm lý chậm phát triển, Autism, Down Syndrome, hoặc ADHD tăng nhiều. Hằng trăm thứ cám dỗ, và hằng trăm những thử thách của tuổi dậy thì, cộng thêm những khắc nghiệt của đời sống, của công ăn việc làm đã khiến nhiều người không nghĩ đến việc có con. Hình ảnh nhiều phụ huynh phải vác chiếu hầu tòa về mang tội “hành hung con cái”, trong khi chính con cái mới là kẻ “hành hung cha mẹ”do sự bướng bỉnh, mất dậy và vô lễ, coi thường công ơn cha mẹ là một trong những ám ảnh đối với nhiều phụ huynh trẻ tuổi.

Thật ra, vấn đề giáo dục không phải là một thách đố quá sức của bậc làm cha mẹ, và việc con cái hư hỏng cũng còn tùy ở chính tư cách, quan niệm và lối sống của phụ huynh nữa.

Một điều tương phản là cha mẹ thì cho rằng con cái khó dậy, hư hỏng vì không vâng lời mình. Ngược lại, những hồ sơ tâm bệnh, những hồ sơ của thiếu niên phạm pháp lại tố cáo sự chểnh mảng, vô trách nhiệm của giới phụ huynh.

“Cha mẹ sinh con trời sinh tính” chỉ có nghĩa đối với những phụ huynh coi thường và lơ là trong vấn đề giáo dục con cái. Bầu khí gia đình cãi vã, cha mẹ đánh chửi nhau là một bầu khí làm cho con cái chán nản, bỏ nhà đi hoang. Ðặc biệt là những cha mẹ làm gương xấu cho con cái bằng chính quan niệm, lối sống, và tư cách của mình.

Tuy nhiên, thực tế rõ ràng là vấn đề giáo dục con cái ngày nay đang gặp phải nhiều khó khăn do môi trường, hoàn cảnh, và những cám dỗ của thế giới văn minh, vật chất.

Tóm lại, đời sống hôn nhân ngày nay đang bị chao đảo vì bị lôi cuốn vào những tư tưởng và lối sống phóng khoáng, tự do và ích kỷ. Vì nền tảng hôn nhân bị lung lay, sụp đổ, nên hệ quả của đời sống này là gia đình cũng bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng rõ ràng nhất là con người ngày nay không muốn có trách nhiệm, nhưng chỉ muốn hưởng thụ. Không muốn vất vả vun trồng cho thế hệ tương lai, nhưng chỉ nhằm hưởng cái lợi trước mắt. Quan niệm và lối sống này hoàn toàn khác với những gì mà Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã huấn dụ trong bài giảng lễ bế mạc Ngày Họp Mặt Thế Giới Về Gia Ðình lần thứ 5 tại Tây Ban Nha như sau: “Bằng một tình yêu cha mẹ chúng ta đã vui mừng đón nhận chúng ta và đã đồng hành với chúng ta từ những bước đầu trong thế giới này, giống như dấu chỉ của bí tích và sự tiếp nối tình yêu ân sủng của Thiên Chúa, từ đó chúng ta vào đời”.

Cảm nghiệm được đón tiếp và yêu thương bởi cha mẹ, theo ngài, “luôn là một nền tảng vững chắc cho việc phát triển và lớn lên vững vàng, giúp chúng ta trưởng thành trên con đường dẫn tới tình yêu, chân lý và vượt qua chính chúng ta để tiến vào sự thông hiệp với người khác và với Thiên Chúa”. Ðó là những nét tích cực và cao cả của sứ mạng làm cha mẹ, ngược lại với quan niệm và lối sống hưởng thụ một cách ích kỷ.

 

HOA TRÁI TÌNH YÊU VÀ QUÀ TẶNG CỦA THƯỢNG ÐẾ

Ðúng ra, con cái phải được coi như hoa trái của tình yêu giữa cha mẹ dành cho nhau, và trên hết, chúng là một quà tặng của Thượng Ðế. 35 năm sau ngày Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ban hành luật phá thai, và trong khi những người ủng hộ quyền sống các thai nhi đang hoạt động để hạn chế và chấm dứt hành động giết người vô luân này, người Việt tỵ nạn, cách riêng những người Công Giáo Việt Nam đang sinh sống tại Hoa Kỳ và các quốc gia trên thế giới nghĩ gì và học được gì qua bài học cho phép phá thai của Hoa Kỳ.

 

Gia đình Nazareth

1 http://www.guttmcher.org/pubs/2006/08/03/ab_incidence.pdf, access 7-0-007
2 Ibid
3 http://www.guttmcher.org/pubs/sfaa/texas.html, access 7-0-007
4 Ibid
5 http://www.guttmcher.org/pubs/journals/3711005.pdf, access 7-0-007
6 73% includes both those who want abortion illegal and those who want it illegel except in cases of inecest and rape (about 1.5% of abortions).http://www.advancewomen.org/images/uploads/Women on Religion Website
Report. pdf, accessed 7-0-07
* Estimated All statistics from the Alan Guttmacher Institute (Planned Parenthood’s Research Affiliate) and include th 3% that AGI reports as under-report
** Giáo Dục Tuổi Trẻ: Những Nguyên Tắc và Hướng Dẫn Tổng Quát. Trần Mỹ Duyệt, Ra Khơi, 2007, tr.95- 99.