ĐÓN CHÚA GIÁNG SINH VỚI TÂM TÌNH NÀO?
(Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2,15-20)
Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm Noel đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi và hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những người cảm thấy mệt mỏi sau một đêm dài với biết bao nhiêu calo phải bỏ ra nơi những cuộc vui chơi, ăn nhậu và nhiều khi trụy lạc nơi những quán bar, nhà nghỉ…
Còn thánh lễ Giáng Sinh vào rạng sáng hôm nay, vẫn quen gọi là thánh lễ Rạng Đông thì lại là một thánh lễ rất êm đềm, không ồn ào, không náo nhiệt, không ca nhạc, kịch nghệ, chẳng có chương trình vui chơi giải trí gì…!
Đối tượng dự lễ cũng chỉ còn lại đa số là những cụ già, hay những người lớn tuổi hoặc một số bạn trẻ đạo đức mà thôi… còn lại, mọi người đang chìm trong giấc ngủ sâu!
Tuy nhiên, trong bầu không khí tưởng chừng như tĩnh lặng này, Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng do thánh Luca trình thuật nói về việc các mục đồng hối hả đi tìm, thờ lạy và loan truyền về Hài Nhi Giêsu cho người khác. Điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ?
1. Các mục đồng đi tìm Chúa như thế nào?
“Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).
Đây là lời của các mục đồng nói với nhau sau khi đã được các thiên sứ báo tin cho biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trong thành Belem.
Thánh sử Luca cho biết thêm: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Như vậy, thánh lễ Rạng Đông của ngày Giáng Sinh giờ này có thể được gọi là lễ Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng.
Tại sao Chúa lại không tỏ ra cho những người quyền cao chức trọng, giàu có hay những nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại tỏ ra cho các mục đồng là những người nghèo, đơn sơ chất phát, thấp cổ bé họng…
Thưa đơn giản, bởi vì nơi các mục đồng có điểm tương giao với Hài Nhi Giêsu.
Thật vậy, khi Con Thiên Chúa hạ sinh nơi cánh đồng Belem chốn bò lừa thanh vắng, quạnh hưu và nghèo khó như vậy, phải chăng Đức Giêsu đã phá cách để làm toát lên bản chất của Thiên Chúa là tình yêu khi không cần đến sự giàu sang của con người, nhưng Ngài muốn một sự gần gũi. Không cần đến cái bề ngoài, mà là sự thiêng thánh, chân thành và đơn sơ.
Đây chính là câu trả lời cho chúng ta biết tại sao các mục đồng và Hài Nhi Giêsu lại “Đồng thanh tương ứng”, và họ lại là người đầu tiên được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Sự đồng cảm này đã làm cho tâm hồn các mục đồng có một ngọn lửa yêu mến đến tha thiết, nên họ đã tỏ ra rất nhạy bén và tinh tế với những gì đã được các thiên sứ loan báo cho họ. Vì thế, giữa đêm tối âm u lạnh lẽo, họ đã đốt đuốc và hối hả ra đi để mong cho được sớm gặp thấy Hài Nhi mới sinh. Khi gặp thấy “Em Bé sơ sinh bọc tả nằm trong máng cỏ”, họ đã tin và nhận ra đó chính là: “Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Đức Chúa” như thiên sứ đã báo.
Cũng trong tâm tình ấy, họ đã nghiệm được ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại mà chính họ là những người đầu tiên được tận hưởng ân lộc lớn lao đó, vì thế, sau khi đã ra về, họ luôn kể về những gì đã thấy cho anh em mình.
2. Con người hôm nay mừng lễ Giáng Sinh như thế nào?
Trên đây là tâm tình mừng Chúa Giáng Sinh của các mục đồng Belem, còn nhân loại và con người hôm nay mỗi khi lễ Giáng Sinh về, chúng ta đi tìm gì và đến với Chúa bằng tấm lòng nào?
Thực trạng thật cho thấy một sự trái ngược đến rõ nét giữa tâm tình và thái độ của các mục đồng thời xưa và con người ngày nay. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi những ngày trước lễ Giáng Sinh, nhiều người ưu tiên lo lắng cho những chuyện như: Giáng Sinh sắp đến rồi, chúng ta đã có tiền để mua đèn hoa trang trí chưa? Giáng Sinh năm nay chúng ta ăn gì, nhậu gì? Liệu có kiếm được món nào “độc” để đãi khách không?
Rồi đến chính đêm Giáng Sinh, nhiều người chủ yếu đi xem ca nhạc kịch, hay đèn hoa rực rỡ nơi các nhà thờ, khu phố…
Lựa chọn ưu tiên và hành động như thế, người ta đã biến lễ Giáng Sinh trở thành thời điểm mua sắm, ăn chơi hay như một lễ hội thuần túy!
Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như đem lại cho mình hạnh phúc, thì trên thực tế, hạnh phúc, niềm vui và bình an đích thực lại quá xa vời đối với họ, bởi lẽ những thứ họ tìm chính là những điều hoang tưởng hoặc chỉ là điều phụ thuộc bên ngoài.
Thật vậy, vui mừng sao được khi trong tâm không có sự chân thành. Hạnh phúc sao được khi sâu thẳm tâm hồn vẫn còn đó sự giận hơn chia rẽ. Bình an sao được khi trong tâm không có sự thánh thiện và đơn sơ!
Thiết nghĩ, khi mừng lễ Giáng Sinh với những thứ hình thức bề ngoài như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể nào cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại. Và lẽ đương nhiên, họ không thể nào tin Chúa với một đức tin sống động như các mục đồng khi xưa, và lẽ tất yếu, không thể loan báo về Ngài cho người khác trong khi tâm hồn trống rỗng và hoang vu như vậy được.
3. Lời mời gọi của Giáo Hội
Mỗi lần lễ Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy noi gương các mục đồng khi xưa để tìm gặp, yêu mến, tôn thờ và loan báo về Chúa cho người khác.
Nếu xưa kia, các mục đồng đã khao khát, hối hả lên đường, tới nơi họ gặp Hài Nhi Giêsu và đã sấp mình thờ lạy, đồng thời khi ra về, họ kể lại cho những người khác được biết về những gì đã thấy trong niềm tin sâu sắc.
Thì sứ điệp ngày lễ hôm nay cũng gửi đến cho mỗi người chúng ta là: hãy để mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh của Chúa đụng chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn. Hãy biết yêu mến, khát khao và tin thờ Chúa, vì chỉ có Ngài là đường, là sự thật, là sự sống, nguồn cội của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Đồng thời, hãy cảm nghiệm và ra đi loan báo về tình thương của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh cho anh chị em chưa biết Chúa.
Thứ đến, cần phải có một tâm hồn đơn sơ, chân thành, khó nghèo. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên nghèo hèn để cho chúng ta được nên giàu có. Ngài cũng chấp nhận cúi xuống để tôn vinh con người bằng sự nhập thể của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã coi trọng đến tuyệt đối nhân phẩm và nhân vị của từng người, nhất là người nghèo. Thế nên, dù trong hoàn cảnh, môi trường nào, đời sống và cung cách của những Kitô hữu không thể trở thành người xa lạ, vô cảm, dửng dưng với một trái tim hóa đá đối với những anh chị em kém may mắn hơn mình.
Chỉ khi nào chúng ta có được tâm tình liên đới, yêu thương và huynh đệ với nhau, chúng ta mới thực sự hạnh phúc và bình an để cảm nghiệm và hát lên bài ca mà các sứ thần đã cất lên trong đêm Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Vẫn một tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, nghèo khó và xác tín mạnh mẽ như các mục đồng khi xưa, giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ, để chỉ lát nữa thôi, mỗi người cũng sẽ được đón nhận chính Chúa Hài Nhi Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vào trong tâm hồn của mình, để Ngài trở thành nguồn suối bình an, vui tươi và hạnh phúc cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, trong trắng như các mục đồng khi xưa, để tâm hồn chúng con được diễm phúc đón Chúa đến viếng thăm và ở lại với chúng con. Amen.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG
(Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6); Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14)
Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”.
Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ.
Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”.
1. Ánh sáng tách lìa bóng tối
Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.
Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống.
Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng.
Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết.
Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại!
Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng.
Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24).
Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết.
Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra.
Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay.
2. Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian
Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi.
Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3).
Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu.
Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse – Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính).
Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).
3. Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng
Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày.
Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người.
Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối.
Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12).
Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”; và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16).
Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín….
Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Suy Niệm Lễ Giáng Sinh: Khai Mở Thời Kỳ Hồng Phúc
Năm 1945, quân đội nước Đức do Hitler cầm đầu bị liên quân đồng minh đánh bại thê thảm, nước Đức trở nên hoang tàn đổ nát và sau đó, vào năm 1949, nước này bị chia cắt thành 2 quốc gia thù nghịch là Đông và Tây Đức.
Vào ngày 13 tháng 8 năm 1961, nhà cầm quyền Đông Đức cho xây lên một bức tường bê tông cốt thép cao 3,6 m và dài chừng 160 km dọc theo biên giới đôi bên, để ngăn chặn làn sóng người tỵ nạn từ Đông Đức tràn sang Tây Đức.
Ngoài ra, Đông Đức còn cho xây dựng tới 302 tháp canh tại những khu vực trọng yếu dọc bức tường này, gắn thêm nhiều đèn pha, bố trí nhiều lính canh cùng với đàn chó dữ canh phòng cẩn mật. Những người lính canh được lệnh bắn chết bất cứ ai tìm cách vượt qua bức tường này.
Thế là có hơn 170 người Đông Đức đã phải bỏ mạng khi tìm cách vượt qua tường thành này. Ngoài ra, có chừng 75.000 người Đông Đức đã bị tòa án luận tội vì mưu toan vượt tường trốn qua Tây Đức. Những người này có thể lãnh án 8 năm tù. Còn những ai giúp đỡ người chạy trốn còn có thể bị án tù chung thân.
Thế là bức tường ô nhục này đã chia cắt một nước Đức duy nhất thành hai quốc gia đối lập, xô đẩy đồng bào ruột thịt trong cùng một nước trở thành hai lực lượng đối kháng, đồng thời ngăn chặn không cho đồng bào ở 2 bên bức tường thăm viếng, gặp gỡ và chung sống hoà bình với nhau.
Thế rồi giờ phút lịch sử đã đến:
Vào ngày 9 tháng 11 năm 1989, sau khi có thông báo của nhà cầm quyền Đông Đức cho phép người dân Đông Đức có thể đi qua Tây Đức mà không phải xin phép như trước, thế là hàng ngàn, hàng vạn người từ Đông Đức tràn qua Tây Bá Linh ăn kem, uống cà-phê nghe nhạc, đi siêu thị mua sắm và ca hát vang đường. Một số thanh niên leo lên bức tường Bá Linh reo hò. Số người tập trung tại chân tường càng lúc càng đông… Nhiều người dùng búa, xà-beng và đủ các vật dụng khác… đập bỏ nhiều mảng của bức tường, rồi sau đó có cả những xe ủi tham gia phá đổ bức tường.
Thế là bức tường ô nhục chia cắt hai miền đất nước được triệt hạ và nhờ đó, người dân hai miền được chung sống trong hoà bình hạnh phúc.
Sự chia cắt của nước Đức trong suốt 28 năm bởi bức tường Bá Linh phản ánh một sự chia cắt đau thương và trầm trọng hơn rất nhiều, đó là sự chia cắt giữa Thiên Chúa và loài người do tội lỗi gây ra.
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, một bức tường vô hình do tội lỗi dựng lên đã tạo nên ngăn cách giữa loài người với Thiên Chúa. Bức tường này tuy vô hình nhưng khả năng chia cắt của nó thật khủng khiếp.
Bức tường vô hình và ô nhục này giống như một con đê lớn, đã ngăn chặn không cho vô vàn hồng phúc của Thiên Chúa tuôn đến với loài người.
Bức tường quái ác này có tác dụng như một con dao sắc bén khổng lồ cắt đứt tình nghĩa giữa con người và Thiên Chúa.
Bức tường ô nhục này đã ngăn chặn không cho loài người trở về với Cha của mình là Thiên Chúa, không cho họ trở về quê thật của mình là cõi phúc thiên đàng, mà buộc họ phải sống lây lất, vất vưởng trên cõi đời ô trọc này trong bất hạnh và cuối cùng phải sa vào hoả ngục là chốn đau thương muôn đời muôn kiếp.
Thiên Chúa là Cha nhân lành không nỡ để cho loài người là con cái Ngài phải sống trong tình trạng khốn cùng này mãi, nên đã lên kế hoạch phá đổ bức tường quái ác này.
Theo kế hoạch này, Thiên Chúa Cha trao ban Người Con một của mình cho nhân loại và Con Một Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người,
Để triệt hạ bức tường ô nhục này,
Để giao hoà con người với Thiên Chúa,
Để cho muôn người được trở về với Thiên Chúa là Cha của mình,
Để cho tình thương và ân sủng của Thiên Chúa được thông ban chứa chan cho nhân loại, Để sự sống thần linh của Thiên Chúa được ban tặng cho muôn người, nhờ đó muôn dân được sống trong hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa trên thiên quốc.
Thế là nhờ biến cố quan trọng này, một trang sử mới được mở ra cho nhân loại, một thời kỳ hồng phúc được khai mở cho cả loài người.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con hết lòng cảm tạ, tôn vinh, chúc tụng Chúa đã hạ mình xuống thế làm người phàm hèn như chúng con để triệt hạ bức tường ô nhục ngăn cách chúng con với Thiên Chúa, nhờ đó, muôn vàn hồng ân cao quý của Chúa được tuôn đến với chúng con.
Đây là hồng ân cao quý nhất và là nguồn hạnh phúc vô biên mà Chúa đã dành cho chúng con.
Xin cho chúng con biết chia sẻ hồng phúc này, niềm hạnh phúc vô biên này cho nhiều anh chị em chưa biết Chúa, bằng cách giúp họ nhận biết Chúa là Đấng cứu độ và đặt trọn niềm tin vào Chúa như chúng con. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Giáo phận Hưng Hoá
NGÔI LỜI TỰ HỦY ĐỂ NÊN NGƯỜI PHÀM
(Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-5.9-14)
Nếu lễ Đêm Giáng Sinh, Phụng Vụ Giáo Hội tập trung để giới thiệu Đức Giêsu là Ánh Sáng của Thiên Chúa, ngài đến để chiếu soi nhân loại và giải thoát con người khỏi bóng đêm tội lỗi, thì Thánh lễ Rạng Đông nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi các mục đồng là đại diện cho những người bé mọn, nghèo khổ và bị loại ra bên lề. Còn thánh lễ này, Phụng Vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến sự tự hạ của Đức Giêsu khi giới thiệu Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận trở nên người phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu chuộc con người.
1. Vì yêu, nên Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể
Khởi đầu Tin Mừng thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Đây là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này vượt quá sự hiểu biết, suy tư của con người! Bởi vì theo lẽ thường thì hiểu sao được khi một vị Thiên Chúa toàn năng vô biên, trí tuệ khôn lường; Ngài là Đấng hằng hữu, trường cửu; Đấng tạo dựng đất trời và biển khơi; Đấng làm chủ không gian và thời gian; Đấng là nguồn mạch sự sống và mọi điều thiện hảo…. (x. Dt 1, 3; Cl 1,15). Thế mà hôm nay, Ngài lại trở nên một con người hữu hạn và chịu sự chi phối như một loài thụ tạo bình thường với những truyền thống và văn hóa của một dân tộc nhỏ bé.
Đây quả là điều rất khó hiểu đối với chúng ta!
Nhưng, theo thánh Gioan, chìa khóa để mở ra cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm cao cả này, chính là hai chữ “tình yêu”.
Vì thế, ngài viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16 ). Lúc khác ngài khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).
Chính vì yêu, Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại món quà quý giá nhất là Con Một của Người. Cũng chính vì yêu, nên khi đến lượt mình, Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1, 14 ). Khi trở nên một Đức Giêsu – người, Ngài cũng trở thành Đấng Cứu Chuộc, Hoàng Tử Hòa Bình, Vua muôn thủa và Ánh Sáng chiếu soi mọi người để dẫn đưa nhân loại về với nguồn sự thật và sự sống để được hạnh phúc viên mãn.
Đây là điều mà chính Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” ( Ga 1, 18 ), Nhờ sự mạc khải đó mà: “Toàn cõi đất này được xem thấy: Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 97, 3 ).
Tuy nhiên, hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9). Tiếc thay, nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, dễ đồng lõa hơn (x. Ga 3,19). Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (x. Ga 1,11).
2. Đón nhận Ngôi Lời như thế nào?
Đây là một nỗi buồn cho nhân loại. Là tấm màn đen của thế giới con người. Là cảnh buồn và ảm đạm trong một thước phim vui. Vì thế, mỗi lần Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái của mình không chỉ mừng lễ với những đèn sao nhấp nháy, tiệc tùng linh đình và những thứ bề ngoài khác. Ngược lại, Giáo Hội không ngớt lên tiếng thúc dục mọi thành phần hãy chuẩn bị tâm hồn cho thật xứng đáng, để đón nhận mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu vào trong tâm hồn của mình.
Một trong những cách thiết thực nhất thể hiện việc sẵn sàng đón nhận Chúa đến với mình, đó là mặc lấy tâm tình của Đức Mẹ Maria để suy đi nghĩ lại trong lòng những gì mắt thấy, tai nghe, ngõ hầu mọi sự diễn ra trước mắt lại được ngấm thật sâu trong tâm hồn mỗi người và toát ra nơi cuộc sống..
3. Hãy làm cho Ngôi Lời của Thiên Chúa được hiện hữu nơi chúng ta
Như vậy, việc mừng Lễ Giáng Sinh đối với người Công Giáo chắc chắn không phải là mừng một biến cố hay kỷ niệm hoặc lễ hội thuần túy, nhưng ngang qua đó, làm toát lên một mầu nhiệm vĩ đại, mầu nhiệm cứu chuộc.
Chính vì vậy mà ơn cứu độ của Đức Giêsu đem đến không phải chỉ một lần vào đêm Ngài giáng trần, cũng không chỉ là lời hứa hẹn cho cuộc sống mai sau, mà ơn cứu độ, sức sống mới của Đức Giêsu đã được trao ban cho chúng ta ngay ngày hôm nay và lúc này.
Vì thế, nếu Con Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận từ chỗ vị trí là Ngôi Lời, là Thiên Chúa đến chỗ Ngôi Lời hóa thành nhục để làm người và để cứu độ con người đang lầm than tội lỗi. Thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm cho Ngôi Lời trở nên sống động và thiết thực trong cung cách sống của mỗi người.
Nói cách khác, chúng ta cũng hãy noi gương Ngôi Lời là Đức Giêsu để làm một cuộc nhập thế ngay trong môi trường, khung cảnh sống của mỗi người.
Sự nhập thế ấy ta hiểu như một sự hóa thân để từ chỗ là một người giàu sang, quyền quý trở nên người cận thân cận lân của những người ốm đau, bệnh tật, cô thế, cô thân, nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, bỏ rơi. Trở nên những người cha, người mẹ đầy yêu thương của các trẻ em mồ côi nơi góc chợ, vỉa hè, trên đường phố hay gầm cầu, công viên. Trở nên người thầy – cô giáo tận tâm, hướng dẫn, dạy dỗ để chắp cánh cho tương lai đầy xán lạn nơi các học sinh thân yêu. Trở thành người có trách nhiệm với người khác như: bảo vệ môi trường, bênh vực công lý, xây dựng công bình và loan báo sự thật trong tin yêu và hy vọng.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải làm một cuộc nhập thể khác nữa, cần thiết hơn và cấp bách hơn, đó là một cuộc nhập thể ngay trong gia đình của mình.
Nếu là người cha/ chồng nơi gia đình, thì sự nhập thể chính là trở nên người chồng, người cha mẫu mực, biết yêu thương, lo lắng, dạy dỗ con cái nên người; biết quan tâm và sống có trách nhiệm cũng như chung thủy với vợ….
Nếu là người vợ / mẹ, thì sự nhập thể chính là biết sống hiền lành, nhã nhặn, vui vẻ, vun quén cho gia đình; biết giữ hòa khí yêu thương và biết chu toàn trách nhiệm làm vợ và làm mẹ….
Nếu là người con, thì sự nhập thể chính là biết ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ và thầy cô giáo; chú tâm đến việc học văn hóa, giáo lý nơi nhà trường và nhà thờ; chu toàn bổn phận hằng ngày trong gia đình….
Đây chính là kết quả của việc lắng nghe, suy đi nghĩ lại và tuân giữ Lời Chúa trong lòng như Mẹ Maria. Đây cũng chính là sống tinh thần Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu. Và, đây cũng chính là một hành trình nhập cuộc theo gương Ngôi Lời Thiên Chúa.
Giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ để cùng nhau đi sâu hơn khi cảm nghiệm và sống mầu nhiệm tự hủy của Ngôi Lời Thiên Chúa ngay trong Bí tích Thánh Thể sắp tới.
Đây chính là quà tặng vô giá mà Đức Giêsu không ngừng ban tặng cho nhân loại, để ai tin và đón rước thì được bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống đời đời mai sau.
Lạy Ngôi Lời của Thiên Chúa, Ngài là Đấng Emmanuel, xin cho chúng con biết cảm nghiệm sâu xa tình yêu tự hủy của Chúa, để đến lượt chúng con, mỗi người cũng biết sống mầu nhiệm ấy trong cuộc đời của mình, ngõ hầu mang lại cho nhân loại niềm hy vọng, bình an và ơn cứu độ qua mầu nhiệm nhập thể làm người của Chúa. Amen.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
NOEL, một tình yêu điên rồ
Sau kinh Truyền Tin trưa chủ nhật III Mùa Vọng vừa qua (17/12/2017), Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chia sẻ với các bạn trẻ tại quảng trường Thánh Phêrô: “Noel, đó là một ngày đại lễ. Nhưng Noel không có Chúa Giêsu, thì đó chỉ là một ngày đại lễ trống rỗng”.
Đúng vậy! Noel là một ngày lễ Chúa Giêsu sinh ra hoặc có thể nói đó là ngày lễ của một tình yêu điên rồ. Hôm nay chúng ta đi lễ mừng Noel. Điều đó rất đúng và Thiên Chúa cũng biết rõ như vậy. Đó là một ngày lễ lớn, đáng để chúng ta cử hành long trọng. Noel đánh thức các trẻ nhỏ và cả cha mẹ chúng nữa. Vâng Thiên Chúa rất vui khi chúng ta mừng lễ Noel.
Tất nhiên, cũng có những tay ăn chơi ruợu chè xả láng trong ngày lễ này. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn nhiều người khác, họ không phải là những tay ăn chơi, họ mừng lễ một cách xứng đáng. Nhưng những người mừng lễ xứng đáng ấy có thể hiểu nổi toàn bộ ý nghĩa của lễ này không? Khi chúng ta không là Thiên Chúa thì khó có thể hiểu nổi Thiên Chúa được. Chỉ khi nào Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta biết, thì chúng ta mới có thể hiểu được Ngài.
Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Noel là một câu chuyện thật hấp dẫn, một câu chuyện phi thường và thánh thiêng. Gửi Con yêu dấu của mình, người con duy nhất đến trái đất này, mà trái đất này cũng chỉ là hành tinh nhỏ bé của toàn thể vũ trụ. Như thế có phải là điên rồ không? Đúng, đó là một sự điên rồ không hơn không kém. Điên rồ quá mức tưởng tượng!
-Gửi Con Yêu Dấu của mình là Ngôi Lời. Ngôi Lời đã làm nên giải ngân hà và toàn thể vũ trụ này. Thế mà Thiên Chúa lại gửi Con Yêu Dấu của Ngài chưa biết nói đến trong một máng cỏ không chắc chắn gì.
-Gửi Con Yêu Dấu của Ngài đến một trái đất nhỏ bé. Thật quá điên rồ! Điên rồ quá lớn khó có thể giải thích nổi và điều còn lại vẫn là sự điên rồ ư?
-Gửi đến trái đất xoàng xĩnh, Con Yêu Dấu của Ngài, giá trị hơn muôn vàn tinh tú. Thực sự là thế đến nỗi một trẻ chăn trâu trầm trồ có thể nói: đứa trẻ Giêsu này chỉ cân nặng gần 4 kg thôi. Đó có phải là sự điên rồ không?
-Gửi Con Yêu Dấu của mình đến một trái đất xoàng xĩnh, không phải là cư ngụ trong phòng một khách sạn. Chúng ta biết đó! Khi thời tiết mùa đông lạnh giá, nhiều người chúng ta chỉ thích nghỉ trong một phòng ấm ở nhà hoặc khi đi xa và khi đi du lịch cũng vậy. Nhưng Con Thiên Chúa lại không thế, Ngài thích ẩn mình trong một túp lều nhỏ, trong nơi trú ẩn xoàng xĩnh của một con bò. Đó có phải là điên rồ không? Điên rồ anh hùng, nhưng dù sao vẫn chỉ là sự điên rồ.
-Gửi đến trái đất Con Yêu Dấu, người con thừa kế, vị Vua thế giới vì người Con Yêu Dấu đó đã dựng nên thế giới và chính thế giới này thuộc quyền sở hữu của Ngài; thế mà Ngài chỉ dùng những tấm ván mục của một máng thức ăn cho xúc vật, và sau này khi giảng đạo công khai, Ngài nói với chúng ta: “con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu”. Đúng thế! Ngài chọn tấm xà ngang xần xùi của một thập giá gò bó. Đó cũng chỉ là một sự điên rồ thôi! Một sự điên rồ cao cả, quảng đại, dịu dàng, anh hùng, nhưng cuối cùng cũng chỉ là một sự điên rồ thôi, không hơn không kém!
Ai trong chúng ta có thể hiểu nổi sự điên rồ của Thiên Chúa trong ngày Noel? Thiên Chúa lại muốn thế và thích thế! Nhiều người trong chúng ta không hiểu và cũng không chấp nhận như vậy. Thật là một sự điên khùng và điên rồ quá độ!
Tuy nhiên, đó có phải là điều không thể hiểu nổi được không? Chỉ có một cách giải thích cho sự điên rồ này, chúng ta có thể đủ hiểu, đó là:
Khi yêu, chúng ta biết rằng mình có thể điên rồ cao đẹp, quảng đại và ngọt ngào.
-Khi một chàng trai yêu một cô gái trẻ bằng một tình yêu say đắm và điên rồ, lại không mua một chiếc nhẫn đẹp, óng ánh, mặc dù giá chiếc nhẫn đó khá cao, mà tiền của chàng trai đó không phải là đầy túi, số dư nhiều trong tài khoản hoặc trong sổ tiết kiệm ?
-Người mẹ yêu con mình, lại không tận tâm thức đêm bên giường đứa con tật nguyền, mà không cần phải tính toán lo toan về sức khỏe của mình hoặc phải mệt nhọc sao?
-Chắc chúng ta đều biết câu truyện cổ tích: Hoàng tử cưới cô bé lọ lem. Chỉ vì yêu, hoàng tử không phân biệt giàu nghèo và địa vị. Đó cũng có thể nói là một sự điên rồ.
Chúng ta biết điều đó: khi chúng ta yêu say đắm chúng ta có thể trở nên điên rồ.
Noel cũng vậy, chính là Tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Và một lúc nào đó, chúng ta ngắm nhìn trẻ thơ Giêsu nằm trong hang đá như một con búp bê. Con búp bê này được Đức Maria sinh ra, nhưng cũng là Đấng từ trời xuống hành tinh chúng ta. Lúc đó, chúng ta bắt đầu hiểu và đi vào Mầu Nhiệm trọng đại của Noel. Con búp bê đó, là tình yêu điên rồ, là tình yêu nhập thể. Nếu không phải là trái tim chai đá, chúng ta hiểu rằng con búp bê đó vén mở tình yêu, làm tình yêu giãi sáng, khơi dậy tình yêu và thức tỉnh tình yêu. Con búp bê bé nhỏ nhưng vĩ đại và mạnh mẽ vì gợi lên một tiếng sấm tình yêu.
Lúc này, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa ngày ĐẠI LỄ NOEL: ngày lễ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa, ngày lễ tình yêu điên rồ của tất cả những ai muốn đáp trả tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Amen!
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
Giáo phận Hưng Hoá
Những thai nhi được cứu sống bởi các bài ca Giáng Sinh
Thậm chí, một cặp vợ chồng Hồi giáo đã quyết định không phá thai sau khi nghe các bài thánh ca Giáng sinh.
Trong 13 năm qua, các nhóm Bảo vệ sự sống (chống phá thai) tại Mỹ đã quy tụ để hát mừng Giáng sinh tại một nơi chẳng giống ai …. đó là bên ngoài các phòng khám phá thai.
Sáu bậc cha mẹ ở Orlando, Florida, được báo cáo là đã thay đổi suy nghĩ sau khi nghe những bài thánh ca Giáng sinh cảm động. Họ quyết định giữ lại con của mình và không phá thai.
Các trường hợp tương tự cũng xảy ra ở nhiều nơi khác. Giám đốc điều hành tổ chức phò sự sống Pro-Life Action League, ông Eric Scheidler nói có 3 cặp vợ chồng khác ở California cũng thay đổi quyết định vào phút chót, khi nghe các ca viên hát xướng bên ngoài ttrung tâm phá thai Family Planning Associates ở San Bernardino.
Ông Scheidler cho biết: “Một cặp vợ chồng đã nói với các ca viên, ‘Chỉ bởi vì các bài thánh ca của các bạn, đã khiến chúng tôi thay đổi ý định và giữ lại đứa bé.’”
Scheidler nói tiếp, những áp lực phát sinh từ việc mang thai đã khiến họ muốn từ bỏ đứa con.
Nhưng họ đã bước ra khỏi phòng khám, “nắm tay nhau trong nước mắt” và cảm ơn các ca viên. Cuộc hôn nhân của họ cũng từ đây được chữa lành.
Nghiên cứu chỉ ra rằng, hầu hết những phụ nữ muốn phá thai đều thực sự không muốn hủy bỏ con mình, nhưng họ cảm thấy vô cùng tuyệt vọng bởi hoàn cảnh và không có sự lựa chọn nào. Chỉ cần có những hỗ trợ chân thành và thực tế, họ sẽ giữ lại đứa con đó hoặc cho đứa trẻ làm con nuôi.
Các nhóm hát thánh ca đã gia tăng trong mùa Giáng sinh, phủ khắp ở 72 thành phố tại nước Mỹ. Chương trình do Pro Life Action League và Pro Life Action Ministries tổ chức.
Những bài thánh ca đã diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến những phụ nữ trẻ mang thai ngoài ý muốn, và có thể đã nhắc nhở họ về cuộc mang thai ngoài ý muốn quan trọng nhất trong lịch sử thế giới. Đó là Hài nhi Giêsu, được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria ở Bêlem.
Michele Herzog, giám đốc văn phòng Pro-Life Action ở Orlando nói, nhóm đã hát thánh ca tại 3 trung tâm phá thai. Đã có 2 cặp sinh đôi, và 2 em bé khác được cứu sống.
Một phụ nữ ra về vui vẻ vào hôm thứ Ba 20/12, tại phòng phá thai ở Wood Dale Ill, nói: “Chúng tôi đang có con! Chúng tôi đã thay đổi ý định.”
Khi cả nhóm gặp đôi vợ chồng ở chỗ đậu xe, người chồng nói với một nụ cười rạng rỡ, “Cảm ơn các bạn. Các bạn đang làm một công việc tuyệt vời!”
Năm ngoái, Herzog còn cho biết, có một cặp vợ chồng Hồi giáo đã quyết định không phá thai sau khi nghe các bài thánh ca Giáng sinh.
Herzog nhớ lại người mẹ mang thai khi ấy: “Thiên Chúa đã chạm đến cô ấy bởi các bài hát. Cô ấy liên tục nói ‘Những bài hát ấy, những bài hát ấy.’ ”
Maria Goldstein, một ca viên của chương trình nói, điều đó thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không tư vấn, cũng không nói với họ gì về phá thai. Tất cả chúng tôi chỉ hiện diện, cầu nguyện và hát thánh ca.”
“Họ đã nghe và cảm thấy Thiên Chúa lôi kéo trái tim họ. Chúng tôi ở đây để đem sức mạnh Thiên Chúa vào nơi tốt tăm này. Thiên Chúa là đấng tốt lành.”
Lược dịch từ National Catholic Register
nhathothaiha
Tại sao có đến 4 Thánh lễ với 4 bài đọc khác nhau cho một lễ Giáng Sinh?
Đức Giáo Hoàng Sixtô III là người đã thiết lập Thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh.
Giáo Hội quy định lễ Giáng Sinh được cử hành với 4 Thánh lễ trong 4 thời điểm khác nhau, từ đêm 24 đến hết 25/12: lễ Vọng cử hành sau 4 giờ chiều 24/12; lễ Đêm cử hành sau 10 giờ tối 24; lễ rạng đông vào sáng 25 và lễ ban ngày Giáng Sinh. Mỗi Thánh lễ đều có lời nguyện, bài đọc và thánh vịnh khác nhau.
Lễ Vọng, không luôn được cử hành, sử dụng bài đọc trong Tin Mừng Mátthêu về gia phả Chúa Giêsu. Trong lễ nửa đêm Giáng Sinh, chúng ta nghe bài đọc trong Tin Mừng Luca kể câu chuyện súc tích về đêm Chúa sinh ra. Vào lễ rạng sáng, nhiều nơi không cử hành lễ này, bài đọc là chuyện các mục đồng đến viếng Chúa ở Bêlem trong Tin Mừng Luca. Và trong lễ ban ngày Giáng Sinh, chúng ta đọc chương đầu Tin Mừng Gioan nói về “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”.
Nhưng tại sao có đến 4 Thánh lễ khác nhau về phụng vụ trong cùng một ngày lễ như vậy? Có nhiều lời giải thích cho điều này.
Vào thời điểm năm 385, các tín hữu ở Giêrusalem tổ chức lễ Chúa Giáng Sinh, Hiển Linh và Dâng Chúa vào Đền Thánh vào cùng ngày 6/1. Nghi thức bao gồm việc tập trung ở Bêlem và cử hành một buổi tế tự, sau đó là đi rước dưới ánh đuốc đến Giêrusalem. Khi đến Giêrusalem thì trời đã hừng sáng, người ta cử hành một Thánh lễ nữa.
Thời gian đó, có một Kitô hữu người Rôma tên là Egeria đến Giêrusalem và quan sát nghi thức này. Trở về Rôma, cô kể lại với một người đàn ông. Người đàn ông đó 47 năm sau trở thành Giáo Hoàng, chính là Đức Sixtô III. Hứng thú với câu chuyện của Egeria, ngài cho thiết lập Thánh lễ Giáng Sinh nửa đêm. Ngài là người đầu tiên cử hành Thánh lễ nửa đêm tại “hang động Giáng Sinh” mà ngài đã cho xây ở Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả để lưu giữ thánh tích chiếc máng cỏ thật Chúa đã nằm.
Một truyện tích khác kể lại như sau. Ngày xưa người ta chỉ cử hành một Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh vào lúc 9 giờ sáng ngày 25/12. Nhưng có một điều không hay là ngày 25/12 trùng với ngày dân ngoại thờ thần mặt trời. Người tín hữu Rôma cũng học theo thói dân ngoại, trước khi vào lễ thì quỳ lạy mặt trời rồi mới vào. Đức Giáo Hoàng Lêô Cả không chấp nhận chuyện này, ngài muốn tín hữu chỉ quỳ lạy một mình Chúa Giêsu mà thôi, nên ngài thêm một Thánh lễ vào nửa đêm 24/12 để người ta không thể lạy mặt trời trước khi vào lễ.
Còn về lễ rạng đông thì nguyên nhân như sau. Vào thế kỷ 6, nhiều Thánh Tử Đạo được mừng kính vào cùng ngày 25/12, trong đó có Thánh Anastasia Sirmium. Sáng sớm Giáng Sinh, Đức Giáo Hoàng phải đi đến một nơi ở thành Rôma mà triều đình Byzantine sống để cử hành Thánh lễ riêng mừng Thánh Anastasia. Cuối cùng, vì tính chất quan trọng của lễ Giáng Sinh, lễ Thánh Anastasia bị dời đi hoặc bị huỷ bỏ, và buổi sáng 25/12 được lấp vào bằng Thánh lễ rạng đông Giáng Sinh, thường được gọi là “Lễ Mục Đồng”.
Lễ rạng đông được cử hành rộng rãi ở nhiều nơi. Ở Mỹ Latinh và Philippines, nó được gọi là “Misa de Gallo” tức “Lễ Gà Trống.”
Theo Aleteia.org
Gioakim Nguyễn lược dịch
61% Người Úc đã chọn Yes trong khảo sát hôn nhân đồng tính
SBS Úc Châu Vietnamese phỏng vấn/trò chuyện cùng Hoà thượng Thích Quảng Ba và Linh mục Giuse Đinh Trọng Chính về góc nhìn của hai tôn giáo phổ biến trong cộng đồng người Việt tại Úc đối với vấn đề hôn nhân đồng tính nhân kết quả người Úc chọn Yes ủng hộ việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính trong khảo sát của chính phủ liên bang.
Hoà thượng Thích Quảng Ba, người đã xây dựng Tu viện Vạn Hạnh ở Canberra cho rằng vấn đề này “cần phải được giải quyết triệt để”, nhằm “nâng vị trí của những người đồng tính này lên ngang bằng với những người [dị tính], không phải để họ chịu thiệt thòi, hay là bị kỳ thị như là tục lệ ngàn xưa để lại.”
“Đây là vấn đề mà chúng tôi nghĩ là nước Úc đi hơi chậm so với những nước tiên tiến khác, và chúng tôi hoàn toàn ủng hộ tính bình đẳng trong hôn nhân mang tính thế tục.”
Tính dục vốn là bản sắc tự hữu của con người đang còn trong vòng sanh tử luân hồi?
Thầy Quảng Ba còn tiết lộ là Tu viện Vạn Hạnh của thầy đã đóng góp 10 lá phiếu Yes, góp phần vào chiến thắng của những người ủng hộ bình đẳng hôn nhân tại Úc.
Thầy giải thích quan điểm rộng rãi và bao dung của đạo Phật đối với vấn đề giới tính của mỗi con người như sau:
“Tính dục vốn là bản sắc tự hữu của con người đang còn trong vòng sanh tử luân hồi. Con người ta sinh ra đã mang theo với sự tái sinh của họ những yếu tố căn bản trong đó có yếu tố ái dục. Ái dục biểu hiện bằng nhiều cách khác nhau, hoặc giả là nam với nữ, hoặc giả là nữ với nữ, hoặc giả là nam với nam…
“Dưới cái nhìn như vậy thì chúng tôi không thấy có gì khác biệt giữa những người mà tự nhiên sinh ra có tố chất sẵn trong người là [đồng tính], thì đó cũng là một biểu hiện của nghiệp lực, không gì khác với những người [dị tính]. Đó là cái nhìn chung của Phật giáo.”
VietRespectlife:
Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề đồng tính vào ngày 11 tháng 6 năm 1997 tại San Francisco, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã “xác nhận nhân phẩm và quyền của những người đồng tính, nhưng Ngài cũng cho rằng, sự thủ dâm hay giao hợp đường miệng, hậu môn là không thích hợp và người tu Phật cần phải tránh. Ngài cho biết mục đích của tính dục như quan điểm người Ấn, là để sinh con, và cũng là điều để giải thích tại sao tất cả những hoạt động tình dục khác không đưa đến sinh con thì đều bị bài trừ”.
Đối với hàng xuất gia, đức Phật không cho phép những người đồng tính được thọ giới Tỳ kheo, trong đó bao gồm cả người ái nam ái nữ và cả loại người mà kinh điển Pali gọi là Pandakas.
Một Linh mục không được phép cử hành lễ cưới của họ trong nhà thờ.
Trong khi đó, Linh mục Giuse Đinh Trọng Chính thuộc dòng Đa Minh ở Perth, Tây Úc, lại đặt vấn đề hôn nhân theo quan điểm của đạo Công giáo như là một “bí tích” của Thiên Chúa.
“Hôn nhân của đạo Công giáo, thứ nhất, đó là một bí tích, mà bí tích này đã được Thiên Chúa tạo dựng, xếp đặt ngay từ khởi nguyên, đó là một cuộc hôn nhân giữa người nam và người nữ,” ông nói.
“Lý do thứ hai là mục đích của hôn nhân Công giáo là sự truyền sinh, bởi vì sự truyền sinh không phải chỉ là một vấn đề duy trì nòi giống, mà nó còn mang ý nghĩa là cộng tác vào chương trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thế thì một cặp hôn nhân đồng tính thì họ không có đáp ứng được những ý nghĩa và mục đích này của người Công giáo.”
“Trân trọng nhân quyền”
Thầy Quảng Ba cho rằng quyền được kết hôn cũng là một trong những quyền cơ bản của con người, dù là đồng tính hay dị tính. Thầy lấy ví dụ về những người đồng tính “bị khinh bỉ, bị lên án, thậm chí có những nơi xứ sở đặc biệt họ bị giết chết hay là bị hành hung nữa là khác.”
“Tôi nghĩ vấn đề bênh vực luận điểm của mình dựa trên tôn giáo hay dựa trên cảm quan, có thành kiến xấu cho rằng những ai đồng tính luyến ái là những người tệ lậu, những người làm hư hỏng xã hội thì tôi nghĩ đó cũng là quan điểm cần phải chấm dứt, hay cần phải tìm cách thôi đi,” thầy nói.
“Tại vì xã hội bây giờ tiến bộ hơn rồi, con người ta sống càng ngày càng văn minh, chúng ta cũng phải trân trọng nhân quyền của người khác bằng của mình, chúng ta không thể vì lý do mình là dị tính luyến ái thì mình lại có quyền coi thường những người đồng tính luyến ái được.”
Thế nhưng Linh mục Trọng Chính lại quan tâm hơn đến quyền lợi của trẻ em trong mối quan hệ hôn nhân – gia đình.
“Nếu cha mẹ đòi hỏi cho mình có cái quyền được lấy nhau, thế thì tại sao cha mẹ không đặt lại vấn đề là đứa con có quyền đòi hỏi nó được một cha một mẹ như những đứa khác. Thế thì tại sao mình bắt nó phải có hai người bố, mình bắt nó phải có hai người mẹ, trong khi đó bản thân mình thì lại không nghĩ tới quyền lợi của nó mà chỉ nghĩ tới đòi hỏi bình đẳng của mình.”
Tóm lại, Linh mục Trọng Chính khẳng định các Linh mục Công giáo tại Úc không được phép cử hành lễ cưới của các cặp đồng tính trong nhà thờ, dù Đạo luật Hôn nhân Úc có được thay đổi hay không.
“Giáo hội Úc vẫn khẳng định là khi mà xã hội đồng ý cho phép một cặp hôn nhân đồng tính dưới góc độ dân sự, thì Giáo hội Úc vẫn hoàn toàn không chấp nhận.”
“Có nghĩa là một Linh mục không được phép cử hành lễ cưới của họ trong nhà thờ.”
Recent Comments