Archive | July 2014

Một Vài Nhận Xét Về Bài “Hội Chứng Quyền Lực Trong Giáo Hội”

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tình cờ hôm Chúa Nhật vừa qua, nhân ghé thăm một người bạn, thấy Ông bạn tôi phàn nàn về nội dung bài viết trên đây của tác giả Võ Lý đăng trên báo Dấn Thân, nên tối hôm đó về nhà, tôi đã đọc xem tác giả viết những gì. Đọc xong, tôi rất thất vọng với hiểu biết của tác giả về những vấn đề được nêu ra trong bài. Tôi đã định không trả lời vì xét ra sẽ không có kết quả với một trình độ hiểu biết như vậy về giáo lý và tín lý. Tuy nhiên, nghĩ lại, tôi thấy cần lên tiếng để tránh ngộ nhận cho những độc giả ngoài Công Giáo về giáo dân và linh mục Việt Nam vì trọng tâm của bài viết trên nhằm vào hai thành phần này.

Mặt khác tôi cũng muốn giải thích rõ cho những độc giả Công giáo về những vấn đề thuộc phạm vi tín lý nhân bài viết của tác giả Võ Lý. Vì thế, trước hết tôi đã viết trả lời tác giả về điều được nêu ra dưới tiêu đề: “Danh xưng cha-con giữa linh mục và giáo dân.” Tôi có hứa trong đó là sẽ góp ý tiếp với tác giả về những ý kiến khác được trình bày trong bài nói trên.

Hôm nay tôi xin được góp ý tiếp về những điểm khác trong bài trên của tác giả. Trước hết tôi xin ghi lại ý chính trong bài “Hội Chứng Quyền Lực Trong Giáo Hội” được in đậm nét như sau (Trích nguyên văn):

“Hội Chứng Quyền Lực phát tác nơi người cầm quyền cũng như nơi kẻ thuộc quyền và tương tác lẫn nhau. Người cầm quyền thì tin rằng mình là Thiên Chúa. Kẻ thuộc quyền thì nhìn vào người cầm quyền như là đại diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ. Và từ đó hình thành nên muôn trùng những “điều lạ lùng” trong tương quan giao tiếp giữa các thành viên trong các thành phần khác nhau hoặc ngay trong cùng một thành phần của Giáo Hội” (Dấn Thân.tr. 35).
Đọc qua mấy dòng trên đây, tôi sửng sốt tự hỏi : “Người cầm quyền” mà tác giả nói trên đây là Ai mà dám “tin rằng mình là Thiên Chúa” ? Giáo Hoàng, Giám Mục, linh mục nào mà dám tin bậy bạ như vậy? Tôi tin chắc không một ai trong Giáo Hội lại có tư tưởng sai lầm nghiêm trọng đến thế. Không biết những người có trách nhiệm của báo Dấn Thân có đọc kỹ bài viết này hay không và khi cho đăng như vậy quí vị có coi thường sự hiểu biết của độc giả, và đã vô tình giúp cho những thế lực thù địch Công Giáo có cớ để tiếp tục đánh phá Giáo Hội như chúng ta đã thấy từ bao lâu nay không ??? Chính vì mối quan tâm này mà tôi đành phải viết để trả lời cho những ý kiến không chính xác của tác giả..

Thật vậy, người tín hữu có trình độ hiểu biết giáo lý trung bình thôi cũng biết rằng mọi phẩm trật trong Giáo Hội từ Đức Thánh Cha xuống hàng Phó tế đều chỉ nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà thi hành mọi sứ vụ được trao phó. Không ai được phép nhân danh mình mà giảng dạy điều gì, vì tất cả Sứ Vụ của Giáo Hội là Sứ Vụ (Ministry) của chính Chúa Giêsu và Người đã trao lại cho các Tông Đồ trước khi Người về trời :

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em …”(Mt 28:18-20).

Thánh Công Đồng Vaticanô thứ II trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium (LG) cũng nhắc lại sứ mạng của các vị lãnh đạo Giáo hội, cụ thể là các Giám Mục, như sau :

“Chúa Giêsu, Đấng được ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, đã trao cho các Giám Mục,vì là những người kế vị các Tông Đồ, sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật, hầu mọi người được rỗi nhờ lãnh nhận Đức tin, phép Rửa và việc chu toàn giới răn Chúa..” (LG. no.24).

Như thế, quyền quan trọng nhất của Giáo Hội là Quyền Giáo Huấn (Magisterium) được lãnh nhận từ Chúa Giêsu và quyền này là bất khả nhượng (non-negociable) đối với mọi thế lực trần gian; cũng không thể chia sẻ với các tín hữu được vì trách nhiệm của người được trao ban và bổn phận của người phải tùng phục vì đức tin. Mọi tín hữu Công giáo và mọi phẩm trật trong Giáo Hội đều phải vâng phục Quyền này. Chỉ có các giáo phái ngoài Công Giáo mới không công nhận Quyền này mà thôi. Trong Giáo Hội, khi Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục hiệp thông với ngài dạy dỗ điều gì có liên quan đến kỷ luật Bí Tích, Phụng vụ, nhất là những gì liên quan đến Đức tin và Luân lý thì buộc mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội phải vâng nghe và thi hành vô điều kiện, vì “ lúc đó các ngài công bố cách bất khả ngộ giáo thuyết của Chúa Giêsu..”(cf. LG.no.25). Không có vấn đề “dân chủ” để cho một thành phần nào trong Giáo Hội được quyền góp ý hay phê phán điều gì được dạy bảo bởi Quyền Giáo Huấn đặc biệt trong hai lãnh vực Đức tin và Luân lý. Tác giả Vỏ Lý chắc đã không đồng ý với Giáo Hội về điều này nên đã viết :“làm sao đối thoại được khi vẫn cứ “độc thoại” và “độc quyền chân lý” (cf. Dấn Thân tr. 42). Rất tiếc tác giả đã không nắm vững giáo lý của Giáo Hội về Quyền Giáo Huấn mà Chúa Kitô đã trao cho các Tông Đồ trước hết và nay cho Giáo Hội là Người kế tục sứ mạng của các Tông Đồ. Không có vấn đề chia sẻ quyền dạy dỗ và bảo vệ chân lý của Giáo Hội.. Linh mục vâng phục Giám mục, Giám Mục hiệp thông và vâng phục Đức Thánh Cha, thủ lãnh của Giám mục Đoàn, Người kế vị Thánh Phêrô để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ (Universal Church). Giám Mục là Thủ lãnh của mổi Giáo đoàn địa phương, quen gọi là Địa phận(Diocese). Linh mục và Phó tế là những cộng sự viên của Giám mục ở mổi Giáo phận. Linh mục vâng phục và thi hành những bổn phận và trách nhiệm được Giám mục ủy thác để chăm lo cho đời sống Đức tin của Giáo dân đặt dười quyền mục vụ của mình..

Đây là những nét chính của hệ thống quyền lực và vâng phục trong Giáo Hội. Hệ thống này chỉ nhằm giúp Giáo Hội thi hành nhiệm vụ “chăn dắt chiên của Thầy” (Jn 21:16). như Chúa Giêsu đã truyền cho Phêrô trước khi Chúa về trời.

Khi đọc chủ đề “Hội Chứng Quyền Lực trong Giáo Hội” của tác giả, thoạt đầu tôi tưởng tác giả nói đến những gì sai trái to lớn trong Giáo Hội cần được thay đổi, nhưng khi đọc kỹ tôi thấy tác giả chỉ nêu ra những điểm tiêu cực trong cách hành xử của một vài Linh mục cũng như não trạng xưa và nay của người Giáo dân Việt Nam, cụ thể như sau:

A- Hội Chứng Quyền lực nơi giáo dân: Thể hiện qua não trạng quá đề cao đời sống tu trì, hãnh diện khi có con cháu làm Linh mục “đỗ cha”, và tủi hổ khi con cháu xuất tu hồi tục.. Quá chú trọng vào việc mừng một tân Linh mục trong ngày chịu chức và làm lễ mở tay. Giáo dân quá “khớp” và khúm núm khi phải giao tiếp với Linh mục vì quá thần thánh hóa “ông Cha” thể hiện rõ rệt qua cách xưng hô “con xin phép lậy cha” “ xin cha làm phúc”…Tài nguyên “tu xuất” phong phú nhưng không được trọng dụng vì mang tiếng “ăn cơm hại nhà Đức Chúa Trời” và nhiều nơi linh mục kiêng dè không muốn dùng họ…

B- Hội chứng quyền lực nơi linh mục: Tân linh mục được quá đề cao, được “siêu tôn lên hàng khanh tướng” nên sau này đâm coi thường giáo dân coi giáo dân như con cái,như những “con chiên” nên muốn nói gì thì nói…không tin giáo dân, không giao quyền cho ai ….Quá đề cao ơn gọi làm Linh mục, khinh thường ơn gọi Hôn nhân của bậc vợ chồng (?).

Đại khái đó là những biểu hiện của cái gọi là “Hội chứng quyền lực trong Giáo Hội” theo tác giả. Nhưng để “giải trừ” những biểu hiện trên đây, tác giả lại động chạm đến những điều có liên hệ đến Đức tin, đến hiểu biết Kinh Thánh và truyền thống của Giáo Hội trong 3 tiêu đề sau đây:

1- Gọi linh mục là một “Đức Kitô khác” không chuẩn xác, vì chỉ có một Đức Kitô duy nhất, không có “những Đức Kitô”!

2- Chủ chăn và con chiên : hình ảnh này không đúng với thực tại, vì chỉ có một Chủ Chăn duy nhất là Đức Kitô. Linh mục và Giáo dân đều là con chiên.

3- Danh xưng cha-con giữa linh mục và giáo dân : không có nguồn gốc Kinh Thánh, Tông Đồ và Giáo phụ. (cf. Dấn Thân. Trang 37-42)

Điểm thứ 3 về danh xưng cha -con, tôi đã trả lời tác giả trong bài trước rồi, nên không cần nhắc lại ở đây nữa.Về diểm 1, tôi xin được vắn tắt giải thích như sau: Danh xưng Linh mục la một “Đức Kitô khác” hay ”Đức Kitô thứ hai” – mà tiếng Latinh là Alter Christus (Alter : người thứ hai), không phải là một sáng chế của Linh mục Việt Nam hay Giáo dân nào nhằm “thần thánh hóa” chức Linh Mục. Từ đầu Giáo Hội, Thánh Phaolô đã gọi các tín hữu Chúa Kitô làThánh (Sanctus) :

“Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là thánh”(Rm:7)

“Kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được thánh hiến trong Đức Kitô Giêsu, được gọi là thánh…” (1Cor 1:2)

Bắt nguồn từ lối suy tư thần học sâu sắc này, Thánh Augustine (354-430), một Giáo Phụ lớn của Giáo Hội, đã dùng từ ngữ Alter Christus (Đức Kitô thứ hai, vì alter có nghỉa là người thứ 2) để áp dụng trước hết cho các Kitô hữu (Christifidelis) để nhấn mạnh ơn sủng lớn lao của người được tái sinh trong Đức Kitô nhờ Phép Rửa và nghe rao giảng Phúc Âm của Chúa. Sau này, suy tư về chức vụ Linh mục và Giám mục, ngài vẫn đề cao và nhấn mạnh ơn phúc được là Kitô hữu, nên ngài đã nói một câu trứ danh như sau : “Cho anh em tôi là Giám mục, với anh em tôi là Kitô hữu. Tước hiệu Giám Mục là bổn phận được lãnh nhận, trong khi tước hiệu Kitô hữu là ân sủng.” (For you I am a bishop, with you I am a Christian. The former title speaks of a task undertaken, the latter of grace) (Sermon. 340,1:PL:1483). Sau đó ngài mới dùng danh hiệu Alter Christus cho Linh mục với hai ý nghĩa : Linh mục vừa là Kitô hữu qua Phép Rửa như mọi Kitô hữu khác, vừa được trở nên giống Chúa Kitô hơn nữa nhờ Bí Tích truyền Chức Thánh (Holy Orders). Tư tưởng sâu sắc này của Thánh Augustinô, được đồng tình phụ họa thêm với Thánh Giáo Phụ John Chrysostom ((344-407),còn gọi là Thánh Gioan Kim Khẩu, đã được Thánh Công Đồng Vaticanô II nhắc lại trong Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis về Chức vụ Linh Mục như sau:

“Chức vụ Linh Mục liên kết với chức Giám Mục,nên cũng được tham dự vào quyền bính mà chính Chúa Kitô đã dùng để kiến tạo, thánh hóa và cai quản Thân Thể Người.Vì vậy chức Linh Mục của các ngài dù giả thiết đã có qua những Bí Tích khai sinh đời sống Kito giáo, nhưng lại được một Bí Tích riêng in dấu đặc biệt khi các ngài được Chúa Thánh Thần xức dầu. Như thế các ngài nên giống Chúa Kitô Linh Mục đến nỗi có quyền thay mặt Chúa Kitô là đầu mà hành động.” (Presbyterorum Ordinis, số 2)

Vì Linh Mục nên giống Chúa Kitô đến nỗi có quyền thay mặt Chúa mà giảng dạy và cử hành các Bí Tích nhất là Bí Tích Thánh Thể, nên Giáo Hội đa chấp nhận từ ngữ Alter Christus (Đức Kitô thứ hai) để gọi Linh mục theo lý giải thần học của Thánh Augustinô từ xưa đến giờ chứ không phải mới đây được dùng ở Việt Nam. Vậy danh xưng này có nguồn gốc Giáo phụ và truyền thống Giáo Hội chứ không phải là một sản phẩm của cái gọi là “Hội Chứng Quyền Lực” như tác giả Võ Lý đã tưởng tượng vô căn cứ. Chỉ trích cách dùng từ ngữ này là chỉ trích truyền thống của Giáo Hội, chứng tỏ tác giả không biết gì về nguồn gốc và lý do từ ngữ được xử dụng mà chỉ có dụng ý muốn hạ giá chức Linh mục mà thôi. Không ai chối cãi là chỉ có một Đức Kitô duy nhất là “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người” (1 Tim 2:5-6). Những khi Giáo Hội nói Linh Mục là Alter Christus chỉ có nghĩa là Linh Mục trở nên làm một với Chúa Kitô vì được chia sẻ chức Linh Mục đời đời của Chúa và để thay mặt Chúa tiếp tục dâng Hy Tế hàng ngày trên Bàn Thờ, chứ không có ý tạo thêm ra một hay nhiều Đức Kitô khác ngang hàng với Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa.

Về điểm thứ 2, tác giả Võ Lý không hài lòng với hình ảnh Chủ chăn của Linh mục. Ta hãy nghe lập luận của tác giả : “ …giữa chủ chăn và con chiên có một khoảng cách không thể vượt qua: chủ chăn là người, con chiên là vật. Chỉ có người mới có tầm nhìn.Vật thì không, nên cần phải có người chăn dắt. Cho nên người bảo sao thì chiên phải nghe vậy. Người dắt chiên đi đâu thì đi, khiến sao thì làm vậy. Cãi lời làm khác thì đã có cái roi cái gậy ! Điều này hoàn toàn không thích hợp cho tương quan linh mục và giáo dân. Linh mục và giáo dân cũng là người như nhau. Trí tuệ, đạo đức, nhiệt tâm uy tín và ảnh hưởng, chưa hẳn ai đã hơn ai…” (tr.41-42)

Qua phát biểu trên đây, tác giả không những tỏ ra khinh thường chức Thánh Linh Mục mà Chúa Giêsu đã lập cùng với Phép Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly cuối cùng mà còn hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa các hình dung từ (metaphors) “chủ chăn” và “đoàn chiên” được dùng trong Kinh Thánh tân và cựu sau đây:

“Lậy Mục Tử nhà Ít-ra-en,
Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse
Như chăn giữ chiên cừu,xin hãy lắng tai nghe” (Tv 80:2)

“Ta chính là Mục Tử nhân lành,
“Ta biết chiên của ta và chiên của ta biết ta”(Jn 10:14)

“Hãy chăm sóc chiên con của Thầy,
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Jn 21:15, 16)

Xin hỏi tác giả : “Con chiên“ nói trên đây là người hay vật ? Là hình ảnh của Dân Chúa cả trong thời Cựu và Tân Ước hay chỉ là đoàn súc vật đang ăn cỏ ngoài đồng ?

Cũng xin nhắc ngay với tác giả là sứ vụ của Linh Mục không phải là để ganh đua với ai về mặt “ kiến thức, đạo đức, uy tín và ảnh hưởng” mà là hiệp thông cùng với Giám Mục để dạy dỗ và bảo vệ chân lý của Chúa Kitô.Thách đố Linh Muc trong phạm vi này là thách đố sứ mạng Chúa trao cho các Tông Đồ và những người kế tục hiệp thông.Tác giả có đọc những câu Kinh Thành dưới đây không ? :

“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Jn 20:21)

“Ai nghe anh em là nghe Thầy, ai khước từ anh em là khước từ Thầy, mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy”(Lc 10:16)

Tác giả viết: “Nếu giáo dân là chiên con thì linh mục là chiên lớn. Chiên con hay chiên lớn thì cũng là chiên thôi.Cơ bản không có gì khác…”(tr. 42) Vậy xin hỏi : Chúa sai AI chăn chiên cho Chúa ??? Nếu Giám Mục, Linh Mục cũng chỉ là chiên như giáo dân, “cá mè một lứa” thì Chúa Giêsu trao nhiẹm vụ “ chăm sóc chiên con chiên mẹ của Thầy?” cho Ai ? Tác giả hiểu thế nào về Sứ vụ của Giáo Hội, cụ thể là Sứ Vụ của các Giám Mục và Linh Mục ? Các ngài có phải là những người kế tục sứ mạng của các Thánh Tông Đồ để chăm sóc đời sống thiêng liêng cho Dân Chúa giống như các mục tử chăn dắt đoàn chiên ngoài đồng cỏ, hay chỉ là những giáo dân “đội lốt” Mục Tử ??. Hình dung từ “ Mục Tử” và “Con chiên” là những ẩn dụ rất quan trọng và sâu sắc được dùng trong Cựu Ước và đặc biệt được chính Chúa Giêsu dùng trong Phúc Âm để mô tả thân tình thắm thiết giữa Chúa và Dân Mới của Người, vậy mà tác giả cho là chỉ có “ý nghĩa hạn hẹp” và “hoàn toàn không thích hợp cho tương quan linh mục và giáo dân” (tr.42). Vậy, tương quan nào mới thích hợp, cân xứng ???. Xin nhắc lại một lần nữa là các hình dung từ “Chủ chăn” và “Đoàn chiên” không phải là những sản phẩm của các linh mục Việt Nam chế ra trong khuôn khổ cái gọi là “Hội Chứng Quyền lực”mà là những ẩn dụ được dùng từ lâu trong Giáo Hội, dựa vào Kinh Thánh, để mô tả Sứ vụ của những người được gọi và sai đi như Giám Mục và Linh Mục. Cũng vì sứ vụ “chăn chiên” cho Chúa mà Đức Giáo Hoàng được gọi là Chủ Chăn (Pastor) của Giáo Hội hoàn vũ, Giám Mục là Chủ Chăn của Giáo Phận, (Diocese)và Linh mục là Chủ Chăn của một Giáo xứ (Parish). Coi Giáo dân là “con chiên” không có nghĩa là khinh thường địa vị “Kitô hữu” của họ, mà chỉ cốt áp dụng đúng từ ngữ và ý nghĩa mà chính Chúa Giêsu đã dùng đầu tiên. (cf. Jn 10:11-16) để nói lên mối tương quan mật thiết giữa người có trách nhiệm chăm sóc thiêng liêng và người nhận sự săn sóc đó vì đức tin mà thôi. Không ai ấu trĩ mà nghĩ rằng chủ chăn mới là người, còn đoàn chiên chỉ là đoàn súc vật, tức hai giai cấp khác biệt nhau.!. Có lẽ vì hiểu như vậy nên tác giả đã viết : “làm sao hiệp thông được khi vẫn cứ “phân chia giai cấp” và “phân biệt đối xử” (cf. Dấn Thân, tr.42). Thế nào là phân biệt giai cấp, phân biệt đối xử ?? Nếu giáo dân muốn bình đẳng, không nhận sự dạy bảo, chăm sóc thiêng liêng của linh mục, thì linh mục còn sứ mạng nào nữ a trong Giáo Hội ??? Mặt khác, nếu không nhìn nhận vai trò của Giám Mục, Linh Mục là người Chăn Chiên thiêng liêng thay cho Chúa, vì “tất cả chỉ là chiên, không có gì hơn khác” như tác giả Võ Lý viết thì tác giả hiểu và cắt nghĩa thế nào về lời Thánh Phaolô nói sau đây:

“Anh em là thân thể Đức Kitô,và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị….Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ,ai cũng là thầy dạy sao?..” (!Cr 13:27-29)

Tóm lại, chỉ vì không hiểu -hay cố tình không hiểu- vai trò của Linh mục, cộng sự viên của Giám mục trong Sứ Vụ, và có lẽ vì quá “dị ứng” với danh xưng Linh mục là “cha”, là “Đức Kitô khác” là “ chủ chăn”, cũng như chỉ căn cứ vào một vài biểu hiện tiêu cực quan sát thấy trong cung cách cư xử của một số linh mục nào đó (..không tin giáo dân, không giao quyền cho ai, không đối thoại, chỉ ra lệnh, phá nhà thờ cũ, làm lại cho mới, thích gọi bằng cha v,v..) hoặc nơi giáo dân xưa kia (sùng bái Linh mục thái quá, thích có con làm cha, tổ chức ăn mừng lớn khi có tân Linh mục v.v..), nên tác giả đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng về tín lý như sau: 1-Về Danh xưng “ Cha” của Linh mục : chối bỏ giáo lý của Thánh Phaolô và của Giáo Hội (Hiến chế Lumen Gentium No.28) về vai trò “người cha thiêng liêng “ của linh mục”.

2- Về Danh xưng Alter Christus (Đức Kitô thứ hai): không biết giáo lý của Thánh Augustinô và truyền thống của Giáo Hội về danh xưng này.

3- Về Tương quan “Chủ chăn và Con chiên”: chối bỏ ý nghĩa và cách dùng từ ngữ của chính Chúa Giêsu áp dụng cho các Tông Đồ xưa kia, cho Giám Mục và Linh Mục ngày nay. Hiểu sai hoàn toàn về hình dung từ (metaphor) đoàn chiên.

Trên đây là những kết luận tôi lấy ra từ nội dung bài viết của tác giả Võ Lý và khách quan trình bày với độc giả. Nhưng đến đây t ôi muốn đặt vấn đề trách nhiệm đối với Ban chủ biên của Nguyệt san Dấn Thân, xuất bản ở Houston, Texas.. Quí vị tự nhận là một Phong trào Giáo dân. Phải chăng chủ trương của quí vị là “ dấn thân”phục vụ cho những lợi ích của Giáo Hội trong đó có Giáo dân ? Vậy khi cho phổ biến những bài vở với nội dung sai lạc tín lý và thấp kém về kiến thức như bài “Hội Chứng Quyền lực” này, thì quí vị phục vụ cho lợi ích nào ? Quí vị giúp gia tăng sự hiểu biết đúng đắn về Giáo Hội và Sứ mạng của các phẩm trật trong Giáo Hội hay gây ngộ nhận về vai trò và sứ mạng ấy ??? Tôi không viết và đặt vấn đề này vì tự ái của một linh mục mà vì lương tâm không cho phép tôi im lặng trước sự việc quan trọng có liên can đến Giáo lý và Tín lý của Giáo Hội Công Giáo.Tôi không muốn bút chiến với ai vì bất cứ lý do gì mà chỉ muốn làm việc chẳng đặng đừng để tránh những hiểu lầm về vai trò và sứ mạng của Linh mục trong Giáo Hội mà thôi. Mong được thông cảm như vậy. Xin chân thành cám ơn tất cả quí vị đọc bài viết này của tôi.

Linh Mục Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, Pastor
St. Gregory The Great Church (Houston)
Linh Hướng Phong trào Cursillo Việt Nam /GP Galveston-Houston

Danh Xưng Cha Con Giữa Linh Mục và Giáo Dân

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Trả lời một bài viết của tác giả Võ Lý trên nguyệt san Dấn Thân

Nguyệt San Dấn Thân vừa qua có đăng một bài dưới nhan đề “Hội Chứng Quyền Lực Trong Giáo Hội” của tác giả Võ Lý. Đọc qua bài này, tôi nhận thấy tác giả đã có công nghiên cứu và can đảm trình bày một vấn đề khá tế nhị về những tương quan giữa Hàng giáo sĩ và giáo dân Việt nam từ trong quá khứ đến hiện tại.

Về nhiều ý kiến của tác giả nêu ra trong bài này, tôi chưa thể góp ý lúc này vì thời gian chưa cho phép. Tôi chỉ muốn góp ý ngay với tác giả về điều được nêu ra dưới tiêu đề 4.3 “Danh xưng ‘cha con’ giữa linh mục và giáo dân”.

Để tiện cho độc giả được theo dõi, tôi xin trích nguyên văn đoạn trên của tác giả như sau: “ Những từ xưng hô Cha, Đức Cha, Đức Thánh Cha để chỉ linh mục, Giám Mục, và Giáo hoàng không có nguồn gốc Kinh Thánh hay truyền thống các Tông Đồ và Giáo Phụ. Chẳng những thế, chúng còn gây nhiều bối mỗi cho chúng ta khi đọc đoạn Phúc âm sau : “Phần anh em thì đừng để ai gọi mình là “rapbi” vì anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả anh em là anh em với nhau . Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất là Cha của anh em vì anh em chỉ có một Cha trên trời ”(Mt 23:8-9). Trong 2000 năm lịch sử của Giáo Hội thì hơn 1000 năm đầu không có một dấu vết nào của lối xưng hô này. Riêng tại Việt nam, việc gọi linh mục là Cha cũng mới xuất hiện gần đây, tại Hànội được ghi nhận vào năm 1924, trong khi Tin Mừng được rao giảng hơn 400 năm, vào khoảng năm 1533 dưới thời nhà Lê…” (trang 42)

… Ở phần tiếp trang 43, tác giả viết: “Lối xưng hô cha-con giữa linh mục và giáo dân chỉ là quy ước, xuất phát từ một giai đoạn lịch sử đặc thù . Nay thời thế đã đổi, tâm lý con người cũng khác, lối xưng hô này cũng nên được xét lại…”

Là một Linh mục trung thành với mọi Giáo lý chân chính của Giáo Hội, tôi thấy cần phải lên tiếng về những ý kiến được trích dẫn trên đây của tác giả Võ Lý để rộng đường dư luận và nhất là để đánh tan những ngộ nhận, hiểu lầm về vấn đề được nêu ra.

Trước hết, tôi xin khẳng định ngay là danh xưng “Cha” dành cho các linh mục Công Giáo không phải là một “quy ước xuất phát từ một giai đoạn lịch sử đặc thù” như Tác giả Võ Lý đã tưởng tượng. Và cũng không phải danh xưng này “ chỉ mới xuất hiện gần đây tại Hà nội được ghi nhận vào năm 1924”, như tác giả đã võ đoán . Phải nói : danh xưng này đã được Giáo Hội cho phép dùng từ lâu trong mọi ngôn ngữ nơi có người tin và sống Đạo Công Giáo của Chúa Kitô. Thí dụ, người Pháp cũng gọi Linh mục là “Père”, người Anh Mỹ gọi “Father”, người Ý và Tây Ban Nha gọi “Padre” v.v… đều có nghĩa là “Cha”. Nhưng vì trong những ngôn ngữ này chỉ có cặp Đại danh từ nhân xưng (personal pronouns) I-You; Je-Tu/Vous,; Yo/Tu-Usted/… được dùng để đối thoại trong gia đình giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh cại em, bạn bè, và ngay cả để cầu nguyện với Chúa nữa. Khi người Pháp nói “ Mon Père” với một Linh mục, nhưng vẫn dùng cặp đại từ” “Je/Vous ” để nói chuyện tiếp với linh mục đó, vì họ không có lối xưng hô Pè re/Fils (cha-con) như người Việt nam. Người Anh, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và Ý cũng vậy. Nên họ không có vấn đề gì với cách xưng hô này, mặc dù họ vẫn gọi Linh mục là Cha khi chào hỏi và mở đầu câu chuyện… Người Việt nam chúng ta thì khác, vì nét đặc thù và phong phú của tiếng Việt trong cách xưng hô…

Trong gia đình, con cái luôn thưa với cha mẹ bằng tương quan Cha-con / Me-con/ và luôn xưng “con”, hoặc “cháu” khi nói chuyện với ông bà. Con cái mà nói “tôi, tao” với Cha mẹ, hay Ông bà thì kể như thuộc thành phần thiếu giáo dục, đáng được sửa sai. Khi cầu nguyện, người Công giáo Việt nam luôn kính cẩn thưa “Lạy Chúa, con xin…”, và tuyệt đối không cảm thông được cách gọi Chúa là “Tu,/Toi” như trong Pháp ngữ hoặc Thou/You trong Anh ngữ trong khi người Pháp hay Mỹ cảm thấy rất thoải mái và tự nhiên khi xưng hô như vậy với Chúa, vì đó là ngôn ngữ của họ. Đây là những nét đặc thù về văn hóa và ngôn ngữ của mỗi dân tộc.

Trở lại lý do tại sao Giáo Hội cho phép gọi Linh mục là “Cha”, một trong những điều gây chia rẽ giữa Giáo Hội Công Giáo và anh em Tin Lành, một điều khiến tác giả Võ Lý phải lên tiếng đặt lại vấn đề. Tôi phải nói thêm một lần nữa là Giáo Hội cho phép gọi như vậy trong mọi ngôn ngữ từ lâu rồi chứ không phải là sản phẩm của riêng người Công giáo Việt nam, nạn nhân của cái gọi là “Hội Chứng Quyền lực”, một đề tài tôi xin được góp ý trong dịp khác.

Tác giả Võ Lý nêu Phúc Âm Thánh Matthêu đoạn 23, câu 8-9 để chứng minh danh xưng “Cha” dành cho các Linh mục Công giáo là “không có nguồn gốc Kinh Thánh hay Truyền thống các Tông đồ và Giáo Phụ”. Anh em Tin Lành cho đến nay cũng trích dẫn đoạn Tin Mừng trên để chỉ trích Giáo Hội Công Giáo là “rối đạo, lạc giáo=heretic). Sự thật có phải vậy không ?? ? Có lẽ anh em Tin Lành và tác giả Võ Lý đã đọc và hiểu vê câu Kinh Thánh trên theo nghĩa ngữ học (semantic) của từ ngữ được dùng thay vì đi sâu vào tâm thức làm nền cho toàn bộ ý nghĩa sâu xa của lời Chúa Giêsu nói khi ấy. Thực ra, Chúa muốn chỉ trích những người Biệt Phái Pharisiêu về thói chuộng hư danh, khoe khoang và hợm hĩnh của họ, vì họ là những người thích được xưng tụng bằng cha, bằng thầy (Rabbi), thích ngồi chổ danh dự nơi hội đường, thích được chào đón nơi công cộng, thích khoe khoang về thành tích đạo đức thay vì thực sự sống và thực hành những gì là cốt lõi của Lề Luật, của Đạo giáo. Vì thế, câu nói trên của Chúa Giêsu hoàn toàn áp dụng cho hạng người này với não trạng đó và không mang nội dung như anh em Tin Lành đã khai thác sai lạc để đả kích Giáo Hội Công Giáo. Vậy tại sao Giáo Hội cho phép gọi Linh mục là “Cha= Pater, Père, Father, Padre,,..” ? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta hãy đọc câu Kinh Thánh sau đây trích trong Thư 1Côrintô của Thánh Phaolô :“ Thật thế, cho dầu anh em có ngàn vạn giám thị trong Đức Kitô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì trong Đức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cor 4:15) . Chính vì lý do này mà Thánh Phaolô đã gọi Timôthê, một môn đệ của ngài, là“người con tôi đã sinh ra trong Đức tin” (1Tim 1:2). Nói khác đi, theo Thánh Phaolô, qua việc rao giảng Tin Mừng và làm Phép Rửa, Giáo Hội sinh con cho Chúa Kitô… Giám mục, Linh mục, qua Thánh Chức, được trao Sứ Vụ rao giảng Tin Mừng, thánh hóa và cai trị, của Chúa Kitô. Qua Sứ Vụ này, các ngài “sinh con” cho Chúa như Thánh Phaolô đã dạy. Đây là chức vụ “người cha tinh thần = Spiritual Fatherhood) của người thi hành Sứ Vụ (Ministry) của Chúa Giêsu Kitô. Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) cũng nhắc lại trách nhiệm của Linh Mục như sau:

“Linh Mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ Bí tích Rửa Tội và giáo huấn” (LG.28)

Như vậy qủa thực là danh xưng “Cha” dành cho Linh Mục có nguồn gốc Kinh Thánh, Tông Đồ và Công Đồng, không phải chuyện bịa đặt như có người kém hiểu biết đã nói vô căn cứ. Danh xưng này không hề xúc phạm đến việc tôn vinh Chúa là CHA duy nhất, Đấng tạo dựng mọi loài, mọi vật hữu hình và vô hình. Danh hiệu “Cha” của Linh mục chỉ nói lên trọng trách của người Tông đồ được sai đi như những đại diện chính thức của Chúa Giêsu : “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10:16).

Như vậy rõ ràng Chúa Giêsu đồng hóa mình với những người đại diện cho Chúa để tiếp tục thi hành Sứ Vụ của Người trong trần thế. Linh mục là người được gọi và sai đi để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, để mang nhiều linh hồn về cho Chúa. Gọi Linh mục là “Cha” để nhấn mạnh sứ mạng “sinh con “ cho Chúa qua sứ vụ rao giảng và làm phép Rửa để tái sinh con người qua nước và Thánh Thần, nhờ đó con người được ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa và được quyền gọi Chúa là Cha (Abba). Đó là tất cả ý nghĩa sâu xa của sứ vụ“sinh con” cho Chúa theo Thánh Phaolô Tông Đồ. Vậy vai trò “người cha thiêng liêng” của Linh mục được hiểu trong tinh thần này, nhằm đề cao trách nhiệm đại diện, thay mặt Chúa Giêsu để giảng dạy và thánh hóa, chứ không nhằm mục đích tôn sùng cá nhân (cult of personality) hay phạm thượng (blasphemy) cần được thay đổi như có người đòi hỏi … Gọi Linh mục là Cha vì căn bản đức tin đó, chứ không phải vì “quy ước xuất phát từ một gian đoạn lịch sử đặc thù… khi mà uy quyền của Giáo hội lên đến tột đỉnh…” như tác giả Võ Lý đã nhận xét sai lầm! Sở dĩ gọi “Cha”, xưng “con”, như người Công giáo Việt nam đã và đang áp dụng khi tiếp xúc với các Linh mục là vì nét đặc thù của ngôn ngữ và văn hóa Việt nam như tôi đã phân tích ở đoạn trên đây.. Nếu trong gia đình Việt nam mà con cái luôn phải xưng hô cha-con/ mẹ- con/ Ông, bà-cháu…. Và không thể nói tôi/ tao với cha mẹ, ông bà, chú bác… thì gọi Linh mục là Cha rồi xưng “tôi”, có phù hợp với văn hóa Việt nam hay không ???

Dĩ nhiên về phần Linh mục, khi được giáo dân xưng hô “Cha/con” thì Linh mục phải hiểu đó là điều nhắc nhở mình đến vai trò và sứ mạng được lãnh nhận qua Thánh Chức, và tuyệt nhiên đây không phải là một ưu quyền được ban cho như trong khuôn khổ “Hội Chứng Quyền Lực”, một nhãn hiệu mới phát minh để đả kích Giáo Hội. Tuy được giáo dân gọi là Cha, nhưng không Linh mục nào lại lố bịch lên Tòa giảng xưng “cha’ với giáo dân và gọi mọi người là con như trong gia đình. Thực tế,có một số linh mục lớn tuổi đã tự xưng “cha” khi nói chuyện với nhửng người trẻ đáng tuổi con cháu mình, còn đại đa số linh mục đều dùng ngôn từ “tôi” hay “chúng tôi” khi nói chuyện với giáo dân dù được người đối diện gọi mình là cha. Cũng có nhiều Linh mục trẻ đã xưng “con”, hoặc “ cháu” khi nói chuyện với những người lớn tuổi hơn mình. Điều này chứng tỏ Linh mục không tự mãn khi được gọi là Cha, và hơn thế nữa, còn chứng tỏ mình biết cư xử phù hợp với tinh thần văn hóa Việt nam. Tất cả mọi Linh mục đều coi giáo dân là “anh chị em” trong Chúa, và luôn hành xử như vậy khi giảng dạy cũng như khi tiếp xúc với giáo dân, mặc dù đều ý thức rõ về vai trò “người Cha thiêng liêng” của mình qua việc thi hành sứ vụ Tư tế phẩm trật (ministerial priesthood) trong Giáo Hội.

Tóm lại, gọi Linh mục là Cha là một truyền thống có từ lâu trong Giáo Hội thuộc mọi ngôn ngữ; và có từ đầu khi Đạo Công Giáo được rao giảng ở Việt nam chứ không phải “mới xuất hiện gần đây, tại Hànội được ghi nhận vào năm 1924…” như tác giả Võ Lý đã viết. Có chăng là hiện tượng quá “thần thánh hóa” Linh mục của giáo dân một thời trong gian đoạn phát triển còn được ghi nhận qua cách xưng tụng như “con xin phép lạy Cha” của nhiều người trong quá khứ xa xưa. Nhưng gọi Linh mục là Cha là điều Giáo Hội dạy và cho phép vì sứ vụ của người “sinh con” cho Chúa như Thánh Phaolô Tông Đồ đã dạy. Đây không phải là “sản phẩm” của một trào lưu phong kiến nào trong Giáo hội như có người lầm tưởng và diễn giải sai lầm với dụng ý chỉ trích Giáo Hội Công giáo. Người Công Giáo trưởng thành không những ý thức rõ mà còn hoan hỉ chấp hành những gì Giáo Hội dạy thay mặt Chúa KiTô. Giáo Hội không phải là một cơ chế chính trị đòi hỏi phải thích nghi với trào lưu của thời đại, với uớc muốn của con người. Giáo Hội là Thân Thể Nhiệm Mầu (Mystical Body) của Chúa Kitô có mặt và hoạt động trong trần gian với Sứ mạng hoàn toàn siêu nhiên. Muốn hiệp thông với Giáo Hội trong Sứ mạng này đòi hỏi người tín hữu phải có Đức Tin trưởng thành. Không có đức tin này thì không thể chấp nhận những Giáo lý và Tín lý của Giáo Hội được, vì những chân lý này luôn mâu thuẫn với những đòi hỏi và mong đợi của xã hội, của thời đại, như Giáo lý về hôn nhân, về bảo vệ sự sống, không truyền chức linh mục cho nữ giới, luật độc thân của linh mục, v.v… Gọi linh mục là “Cha” cũng là một truyền thống có căn bản đức tin của Giáo Hội mà người Công Giáo trưởng thành không nên thắc mắc, đặt vấn đề đúng, sai. Tôi không cố chấp bênh vực vì tôi là Linh mục. Tôi chỉ muốn bênh vực điều phù hợp với đức tin, với Giáo lý chân chính của Giáo Hội mà thôi.

Người Do Thái tin và thờ lạy Chúa nào?

Hỏi: Xin Cha cho biết: người Do Thái có tin và thờ lậy Một Thiên Chúa như người Công Giáo hay không ?

god

 

Trả lời:Trước hết , phải nói ngay là giữa Công Giáo (Catholicism) và Do Thái Giáo ( Judaism) có sự gần gũi căn bản về niềm tin có Thiên Chúa là Đấng tác tạo muôn loài muôn vật mà quan trọng nhất là Thiên Chúa đã tạo dựng  con người ” theo hình ảnh của Thiên Chúa“( St 1:27), như người Do Thái và Công giáo cùng có chung  niềm tin này.

 

Tuy nhiên, về nội dung từ ngữ “Thiên Chúa (God) thì lại có sự khác biệt lớn giữa Do Thái và Công Giáo như sau:

 

Trước hết, người ta có thể tự hỏi: Chúa mà người Do Thái tin và nhìn nhận là Chúa nào? Là Thiên Chúa độc nhất, (độc thần = monotheism)  của Do Thái Giáo ( Judaism) hay là Thiên Chúa Ba Ngôi( Holy Trinity) như Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng và phụng thờ?

 

Chắc chắn người Do Thái chỉ tin và nhìn nhận một Thiên Chúa Yahweb độc nhất là Cha các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Jacob mà thôi. Niềm tin này dựa vào lời  Thiên Chúa (God) đã nói với ông Môsê từ bụi cây bốc cháy sau đây: “Ta là Thiên Chúa của cha người, Thiên Chúa của Áp-ra ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Giacóp.” (Xh 3:6)

 

Sau khi ông Môsê dẫn dân Do Thái ra khỏi Ai cập và trở về quê hương an toàn, Thiên Chúa đã ký với họ một giao ước (Covenant) trong đó Ngài đã hứa: “Vậy giờ đây, nếu các người thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta.” (Xh 19:5)

 

Đó là lý do vì sao dân Do Thái được gọi là dân riêng được tuyển chọn (chosen people) của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn họ chứ không phải họ tự ý chọn Ngài.

 

Nhưng dù là dân ưu tuyển, họ đã tõ ra bất trung, cứng lòng và bội ước biết bao lần qua dòng thời gian khiến Thiên Chúa đã nhiều lần phải quở trách và nỗi giận với họ:

 

Suốt  bốn mươi năm  dòng giống này làm Ta chán ngán

          Ta đã nói: đây là dân tâm hồn lầm lạc

          Chúng nào biết đến đường lối của Ta

          Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng:

         Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta.” ( Tv 95: 10-11)

 

Lịch sử cứu độ bắt đầu với việc Thiên Chúa chọn dân Do Thái,  và qua họ, đặc biệt qua Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa đã nói và mời gọi các dân tộc khác nhận biết Ngài cũng như  nhận biết Chúa Kitô, tức Chúa Con, là Đấng Cứu Thế  đã sinh ra từ một dòng tộc Do Thái. Nhưng người Do Thái, ngay từ đầu, đã không nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Messiah) mà các ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu Ước:

 

Người đã đến nhà mình

              Nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” ( Ga 1:11)

 

Chính vì họ không nhìn nhận Chúa Giêsu từ đầu, nên họ đã phẫn nộ và ném đá Chúa khi nghe Người nhận mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa: “Ta và Chúa Cha là một” ( Ga 10:29).

 

Người Do Thái đã giải thích lý do họ ném đá Chúa Giêsu như sau: “Chúng tôi ném đá ông không phải vì một việc tốt đẹp, mà vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10:33).

 

Cuối cùng , họ đã đóng  đanh Chúa trên thập giá cũng chỉ vì họ không nhìn nhận Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trần gian trong thân phân Con Người, một sự kiện lịch sử mà Giáo Hội cử hành hàng năm với đại lễ Giáng Sinh để vui mừng nhắc lại hồng ân cứu độ của Thiên Chúa  cho toàn thể nhân loại khỏi chết vì tội lỗi để được sống muôn đời nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

 

Như thế, rõ ràng người Do Thái không tin và nhìn nhận Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế (Savior) cho đến nay như Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thông Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) tin chắc chắn. Nói khác đi, Giáo Hội Công Giáo cũng tin và thờ lậy một Thiên Chúa là Cha các Tổ phụ của người Do Thái, nhưng khác với người Do Thái ở điểm căn bản này: đây là Thiên Chúa Ba Ngôi (Holy Trinity) gồm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi riêng biệt nhưng cùng một bản thể (One Substance = One Being)  một vinh quang (splendor) và uy quyền như nhau. (Kinh Tin Kính)

 

Nói rõ thêm,  Giáo Hội Công Giáo tin và dạy rằng Chúa Con – tức Ngôi Hai Thiên Chúa – đã xuống trần gian  để cứu chuộc nhân loại qua khổ hình thập giá. Ngài chính là Đấng Messiah mà các ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu Ước.

 

Vì thế, tin và nhìn nhận Ngài là điều tối quan trọng cho phần rỗi của con người và cho được đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Người Do Thái, trái lại, hoàn toàn không chia sẻ niềm tin này, vì họ cũng không có ý niệm gì về một Thiên Chúa Ba Ngôi  như Giáo Hội Công giáo và Chính Thống giáo tin.

 

Do đó,  khi nói người Do Thái  tin và nhìn nhận “Chúa”, thì danh xưng “Chúa” ở đây không có cùng một nội dung như người Công Giáo tin theo giáo lý Giáo Hội  dạy. Nghĩa là, khi người Công giáo nói cầu xin Chúa hay tin Chúa, thì  Chúa ở đây vừa có nghĩa là Thiên Chúa Ba Ngôi mà cũng  có nghĩa là Chúa Giêsu-Kitô, Đấng mà người Do Thái không nhìn nhận và tin cho đến nay.

 

Đó là sự khác biệt về thần học và tín lý giữa Công Giáo và Do Thái Giáo quanh danh xưng “CHÚA” ( GOD).

 

Vậy không thể nói là dân Do Thái  tin và nhìn nhận Chúa cách chung chung như người Công giáo được vì tính mơ hồ hay tối nghĩa (ambiguous) của danh xưng “Chúa”  trong ngữ cảnh này.

 

Chúng ta hãy cầu xin cho anh  em Do Thái sớm nhìn nhận Chúa Kitô và chia sẻ  chung niềm tin với chúng ta về một Thiên Chúa Ba Ngôi, là Cha nhân lành đã thương tạo dựng và cứu chuộc nhân loại nhờ Chúa Cứu Thế Giêsu.

 

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn