Archive | February 2016

Kinh nguyện Thánh Thể là gì?

Đáp:

Kinh nguyện Thánh Thể là kinh nguyện quan trọng nhất trong thánh lễ. Đó là trung tâm điểm của bí tích Thánh Thể. Không có kinh nguyện Thánh Thể thì không có thánh lễ. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn, nghĩa là Người đọc kinh nguyện Thánh Thể (xem Lc 22,19).

Kinh nguyện Thánh Thể khởi đầu bằng lời mời cộng đoàn hướng tâm hồn lên để cầu nguyện và tạ ơn Thiên Chúa:

° Chúa ở cùng anh chị em. – Và ở cùng cha.

° Hãy nâng tâm hồn lên. – Chúng con đang hướng về Chúa.

° Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. – Thật là chính đáng.

Hãy tạ ơn Chúa! Đó là lời quan trọng nhất. Tạ ơn Chúa là mục đích chính của thánh lễ. Tham dự thánh lễ là tạ ơn Chúa cả trời đất vì bao kỳ công của Người hôm qua, hôm nay và ngày mai.

Kinh nguyện Thánh Thể luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha.

Cấu trúc kinh nguyện Thánh Thể:

Chúng ta dừng lại ít phút để khảo sát kỹ lưỡng và để hiểu rõ cấu trúc của kinh nguyện Thánh Thể. Để tham khảo, tôi đề nghị nên tìm đọc kinh nguyện Thánh Thể II trong sách lễ Roma. Sau đây là cấu trúc:

1. Đối thoại mở đầu: đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn, mà chúng ta vừa nêu ở trên, nhằm mời gọi tâm tình tạ ơn.

2. Lời Tiền Tụng: linh mục chủ tế nhân danh toàn thể cộng đoàn tán tụng Chúa Cha và cảm tạ Người về tất cả công trình cứu chuộc cho nhân loại, hoặc về lý do nào đặc biệt, tùy ngày, tùy lễ, tùy mùa khác nhau. Lời Tiền Tụng cũng làm nổi bật công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.

3. Kinh “Thánh! Thánh! Thánh!”: toàn thể cộng đoàn, hợp với các thần thánh trên trời, hát hay đọc “Thánh! Thánh! Thánh!” Đây là lời tung hô, thờ lạy, tạ ơn và vinh danh Chúa Cha.

4. Kinh khẩn cầu: xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, dùng quyền năng để thánh hiến bánh và rượu, nghĩa là làm trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.

5. Lời truyền Phép: linh mục nhân danh Chúa Kitô đọc lại những lời Người đã nói trong bữa Tiệc Ly. Chính Chúa Kitô đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa tối sau cùng này, ban cho các Tông Đồ Mình và Máu Người, dưới hình bánh và hình rượu, để ăn và uống, và truyền cho các ông phải làm cho mầu nhiệm này tồn tại mãi.

6. Kinh tưởng niệm: sau lời truyền phép, Giáo Hội tưởng niệm toàn bộ công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, nhất là việc tưởng niệm cuộc khổ hình, phục sinh, lên trời của Người, và loan báo ngày Người sẽ trở lại. Kinh tưởng niệm được bắt đầu bằng lời tung hô của cộng đoàn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết…”

7. Kinh khẩn cầu (2): xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, các tín hữu được lãnh nhận ơn cứu độ và được hiệp nhất trong Hội Thánh, là thân thể sống động của Chúa Kitô.

8. Lời chuyển cầu: sau kinh khẩn cầu là một loạt các lời cầu xin, cho Giáo hội, cho mọi người trong cộng đoàn, cho kẻ sống cũng như kẻ đã qua đời, v.v… trong niềm hiệp thông với các thánh.

9. Vinh tụng ca: cuối kinh nguyện Thánh Thể, một lần nữa linh mục dâng lời tôn vinh Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.

10. Amen! Toàn thể cộng đoàn kết thúc kinh nguyện Thánh Thể bằng cách xướng hoặc hát Amen! có nghĩa là cộng đoàn tán đồng với tất cả những điều vừa được đọc trong kinh.

Như thế, thánh lễ, nhất là trong kinh nguyện Thánh Thể, trở thành tổng hợp và khuôn mẫu cho mọi lời nguyện Kitô giáo, dưới mọi khía cạnh, cho mọi nhu cầu, bắt đầu bằng lời tụng ca và lời tạ ơn lên Thiên Chúa đã ban cho chúng ta biết bao ơn lành. Thực sự, chẳng phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận những hồng ân đó, nhưng vì Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước tiên.

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Đâu là ý nghĩa của lời nguyện cho mọi người?

Đáp:

Tiếp sau phần tuyên xưng đức tin là phần lời nguyện cho mọi người (cũng gọi là lời nguyện tín hữu, hay trước đây thường gọi là lời nguyện giáo dân).

Cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn không những cho Giáo Hội, cho cộng đoàn và cho những người tham dự thánh lễ, mà còn cho tất cả mọi người, như lời khuyên của thánh Phaolô (1 Tm 2,1).

Trong lời nguyện cho mọi người, chúng ta để con tim chúng ta cùng rung nhịp đập với mọi thụ tạo, với mọi chiều kích của vũ trụ, biết thông cảm với những khổ đau, lao nhọc, với những niềm hy vọng của mọi người trên trái đất này.

Lời nguyện cho mọi người phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay của mình và khẩn cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các thụ tạo của Người.

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Quyên tiền có phải là nghi thức thừa thãi không?

Đáp:

Một số người không thích quyên tiền trong các thánh lễ Chúa nhật, vì việc ấy làm chia trí trong lúc cầu nguyện. Phải chăng đó là hành vi quá vật chất và trần tục trong khung cảnh hoàn toàn thiêng liêng?

Quyên tiền là một nghi thức rất cổ xưa và là cách thực hành đã có từ buổi đầu của Kitô giáo. Trong lá thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phaolô trách họ không biết chia sẻ thức ăn trong tình bác ái trong bữa tiệc của Chúa (1Cr 11,21).

Vào khoảng năm 150, thánh Justinô kêu gọi tín hữu như sau: “Những ai khá giả, và những ai muốn cho, hãy cho một cách tự do, mỗi người theo ý mình muốn. Những gì quyên góp được sẽ được trao cho vị chủ tế để ngài cứu trợ những kẻ mồ côi, quả phụ, đau yếu, bần cùng, bị cầm tù, lữ khách, nói tóm lại, ngài cứu giúp tất cả những ai đang túng thiếu” (I Apol. 67).

Lúc đầu, các tín hữu đem bánh và rượu đến để dâng thánh lễ. Các lễ vật này được rước kiệu lên bàn thờ, được chủ tế đón nhận để dâng lên Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của phần dâng lễ và lời nguyện tiến lễ (lời nguyện trên lễ vật).

Ngoài việc đem bánh và rượu dùng vào việc dâng thánh lễ, các tín hữu cũng đem các tặng vật khác cho người nghèo. Từ thế kỷ thứ IX, vì việc nhận lễ vật bằng tiền mặt có vẻ tiện lợi hơn, nên việc rước kiệu lễ vật được thay thế bằng việc quyên tiền. Việc quyên tiền này trong thánh lễ vừa là dấu chỉ sự tham dự tích cực của mọi tín hữu vào thánh lễ, vừa là lễ vật của mỗi người. Nghi thức kiệu lễ vật trong thánh lễ, hiện vẫn còn được thực hiện tại một vài miền và vào các dịp lễ lớn, giữ lại dấu vết của tục lệ cổ xưa này.

Ngay từ thời sơ khai, tình liên đới giữa các phần tử trong cộng đoàn Kitô được cổ vũ để cung cấp những nhu cầu của Giáo hội và của người nghèo. Việc quyên tiền là một phương cách hữu hiệu để thực hiện tình liên đới này.

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Cử hành thánh lễ với loại rượu nho nào?

Đáp:

Qui luật duy nhất là dâng thánh lễ với rượu nho tự nhiên và nguyên chất, nghĩa là không pha trộn với chất nào khác.

Tại nhiều xứ không trồng nho được, người ta sử dụng rượu nho tự nhiên có nồng độ hơi cao một tí, như rượu Porto chẳng hạn, để có thể giữ được lâu.

Trước thế kỷ thứ XVI, người ta thường dùng rượu nho đỏ (hiện nay, phụng vụ theo truyền thống Byzance, bên Đông Phương, vẫn còn duy trì tập tục này). Vào thế kỷ thứ XVI tại Tây Phương, khi người ta bắt đầu dùng khăn lau để tráng chén lễ, người ta thích dùng rượu nho trắng hơn để dâng lễ vì ít để vết.

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Tại sao chỉ có một mình linh mục đọc kinh nguyện Thánh Thể?

Đáp:

Kinh nguyện Thánh Thể không phải là kinh nguyện của một mình linh mục, nhưng là của toàn thể cộng đoàn. Bằng chứng là, khi đọc kinh nguyện Thánh Thể, linh mục không dùng chữ “con” nhưng là “chúng con”. Thí dụ trong kinh nguyện Thánh Thể II, ta thấy những câu như sau:

° “Vì thế, chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hóa những của lễ này…”

° “Khi kính nhớ… chúng con dâng lên Chúa bánh trường sinh và chén cứu độ…”

° “Chúng con nài xin Chúa thương xót tất cả chúng con…”

Vị linh mục không tách rời với cộng đoàn; ngài liên kết với cộng đoàn và nhân danh cộng đoàn mà cầu nguyện. Dĩ nhiên, có lúc linh mục phát biểu nhân danh Chúa Kitô: đó là lúc ngài đọc lời truyền phép Thánh Thể. Nhưng hầu hết, ngài phát biểu nhân danh cộng đoàn.

Như thế, tất cả cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa, khẩn cầu Chúa Thánh Thần, cả cộng đoàn dâng lời cầu xin lên Chúa Cha. Do đó nếu nói rằng kinh nguyện Thánh Thể là việc dành riêng cho linh mục mà thôi thì không đúng tí nào. Tuy một mình linh mục đọc hầu hết kinh nguyện Thánh Thể, nhưng ngài nhân danh mọi người mà làm. Kinh nguyện này không phải là kinh cá nhân của linh mục nhưng là kinh nguyện chung của toàn cộng đoàn. Lời thưa “Amen” của cộng đoàn diễn tả điều đó (đã đề cập ở câu hỏi trước).

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Tại sao chủ tế bỏ một miếng bánh thánh nhỏ vào chén thánh?

Đáp:

Sau khi bẻ bánh thánh, ngay trước lúc rước lễ, linh mục bỏ một mẩu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh.

Sách lễ không giải thích nghi thức này, có lẽ do không thấy sự cần thiết hoặc do không chắc chắn về ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, Giáo hội vẫn giữ lại nghi thức ấy vì muốn trung thành với truyền thống. Có hai cách giải thích:

1. Nghi thức này có thể liên quan đến thời gian đầu của Giáo hội. Các mẩu bánh thánh trong thánh lễ của Đức Giáo hoàng được phân chia cho các cha xứ tại các nhà thờ nội thành Rôma. Những vị này không thể đến dự lễ Đức Giáo hoàng cử hành do phải dâng lễ cho giáo dân. Việc chia bánh thánh này muốn diễn tả sự hợp nhất của linh mục đoàn thành Rôma với vị giáo hoàng của mình.

2. Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại để cho những người bệnh và những người hấp hối rước lễ. Người ta cần thay thế lại mỗi khi bánh thánh trở nên khô cứng, bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm bớt để chịu lễ cho dễ dàng hơn.

Ngày nay, mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta thường nói đến ý nghĩa tượng trưng của bánh thánh và rượu thánh. Giới thiệu mình và máu, như Chúa Giêsu đã làm ở bữa Tiệc Ly, theo não trạng của người Do thái, là gợi lên sự chết, vì sự sống (tượng trưng bởi máu) không ở trong xác thịt nữa. Do đó, hòa lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô hằng sống, đó là chuyện tự nhiên. Vả lại, khi nhìn bánh và rượu trên bàn thờ, chúng ta nghĩ ngay đến bữa ăn, dấu chỉ của sự sống.

Khi bỏ một mẩu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế đọc nhỏ: “Xin cho việc hòa Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, mà chúng con sắp lãnh nhận, đem lại cho chúng con sự sống muôn đời”.

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

 

Tại sao phải dùng bánh không men trong thánh lễ?

Đáp:

Luật hiện hành của Giáo hội buộc rằng thánh lễ phải được cử hành với bánh không men (Giáo Luật, số 926).

Nhưng ngày xưa không hẳn như thế. Vào giữa thế kỷ thứ II, thánh Justinô cho biết là giáo dân đem bánh nướng tại nhà mình đến để dâng trên bàn thờ. Chắc chắn đó là bánh nướng được làm dậy bằng men. Cho tới thế kỷ thứ XI, người ta chấp nhận cả bánh có men lẫn bánh không men để cử hành thánh lễ. Vào giữa thế kỷ XI, Giáo hội Tây Phương có thói quen chỉ dùng bánh không men.

Tại sao bánh có men được thay dần dần bằng bánh không men?

1. Trước tiên, vì theo gương Chúa Kitô. Theo các thánh sử Mát-thêu (26,17), Mác-cô (14,12) và Lu-ca (22,7-8), bữa Tiệc Ly là tiệc lễ Vượt Qua, trong đó người ta dùng bánh nướng không men để tưởng nhớ ngày dân Do thái, do phải vội vã lên đường trốn ra khỏi Ai cập, họ không có đủ thời giờ để chờ bột dậy men rồi đem nướng. Dùng bánh không men là cách để nhắc nhở việc ấy.

2. Vào thế kỷ thứ XII, việc tôn kính Thánh Thể trở nên phổ biến và được thực hiện một cách tỉ mỉ. Người ta cố giữ làm sao không cho một mẩu vụn bánh nào rơi xuống đất. Bánh không men được xét là thích hợp hơn để dâng thánh lễ vì ít bở hơn và nhẹ hơn bánh có men. Vả lại, với bánh không men, người ta làm được dễ dàng những tấm bánh trắng và đẹp, dấu chỉ sự tinh tuyền của lễ vật chúng ta dâng. Hơn nữa, với bánh không men, người ta dễ làm các bánh nhỏ dành cho giáo dân.

3. Thánh lễ là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Do Giáo hội Đông Phương vẫn duy trì bánh không men, nên việc chúng ta cũng dùng bánh không men để biểu lộ sự hợp nhất với các Kitô hữu Đông Phương.

4. Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác. Dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể.

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Chúc bình an, một hành vi xã giao mà thôi?

Đáp:

Khi vị chủ tế chúc: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”, cộng đoàn thưa: “Và ở cùng cha”.

Và chủ tế nói thêm: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Chúng ta đừng nghĩ rằng việc chúc bình an ở đây cũng giống như việc thân hữu ngoài đời trao tặng cho nhau.

hông, đây là một sự hòa giải. Thật vậy, trong Bài giảng trên núi, Chúa Giêsu nói rõ rằng trước khi thực hiện mọi hành vi phụng tự, cần phải làm hòa với anh chị em mình trước đã: “Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ” (Mt 5, 23-24). Do đó, trong phụng vụ Đông Phương, nghi thức chúc bình an vẫn còn được đặt trước kinh nguyện Thánh Thể, cũng như tại Tây Phương trong thời gian đầu.

Việc thực hành nghi thức chúc bình an đã biến mất từ nhiều thế kỷ nay. Sau Công Đồng Vaticanô II, nghi thức này lại được lồng vào trong thánh lễ. Một số người không thích cho lắm, vì họ nghĩ rằng: ngoài các cử chỉ, di động phiền toái, lại còn thiếu sự thân mật giữa các tín hữu đang tham dự thánh lễ.

Thật ra, nghi thức chúc bình an trước tiên có một ý nghĩa thiêng liêng. Thánh lễ là nơi mà tất cả tín hữu khám phá và nhận ra mình là con cái của cùng một Cha, do đó tất cả là anh chị em với nhau. Nói lên điều đó không thôi thì chưa đủ, cần phải được thể hiện cụ thể. Cử chỉ chúc và trao bình an là một trong những dấu hiệu đẹp nhất, qua đó chúng ta biểu lộ rằng chúng ta là con cùng một Cha.

Nhưng đôi khi việc chúc bình an đòi hỏi một sự cố gắng lớn, bởi vì cử chỉ này đòi hỏi mỗi người ra khỏi cái tôi chật hẹp của mình và coi người khác như là người mà ta phải tôn trọng và yêu thương. Trong một vài trường hợp, để chúc bình an một cách thật lòng, chúng ta cần phải tha thứ trong lòng trước đã, người mà chúng ta sắp đưa tay chúc bình an. Việc này không dễ dàng gì !

Việc chúc bình an được đặt trước phần rước lễ. Điều đó bình thường thôi, bởi vì làm sao chúng ta có thể đến gần Chúa Kitô và nói rằng chúng ta yêu mến Người, trong khi chúng ta từ chối hướng mặt về người anh chị em đang ở bên cạnh chúng ta? “Kẻ nào không yêu mến anh chị em mà mình xem thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không xem thấy được” (1 Gioan 4,20).

Như thế, chia sẻ với người bên cạnh một nắm tay, hôn bình an hoặc cúi đầu chúc bình an (tùy theo phong tục của mỗi dân tộc) không phải là cử chỉ xã giao, lịch sự, mà là dấu chỉ hiệp thông trong sự bình an và tình yêu thương nhau. Và sự bình an này do Chúa Kitô ban tặng (“Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”). Thật vậy, Chúa Kitô đã phán: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Gioan 14,27). Do đó, sự bình an này rộng lớn hơn những gì con tim chúng ta có thể chứa đựng được, cũng như rộng lớn hơn những gì bàn tay chúng ta có thể truyền đạt được.

(Trích từ tập sách “40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ” của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Mùa Chay Là Gì?

lent

Mùa Chay là mùa ăn năn thống hối, cầu nguyện, bố thí, mùa chịu nạn, thương khó, chuẩn bị cho đại biến cố Phục Sinh. Được bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kết thúc với Chúa Nhật Phục Sinh. Nó chứa đựng 40 ngày chay tịnh để tưởng nhớ đến biến cố Chúa vào trong hoang địa ăn chay, cầu nguyện và sau đó chịu sự cám dỗ trong 40 đêm ngày; là thời gian của thương khó và thống hối. (thực sự là 46 ngày, nếu tính từ Thứ tư lễ Tro cho đến Chúa nhật Phục sinh, nhưng theo nghĩa hẹp, Mùa Chay tính từ Chúa nhật thứ nhất đến chiều Thứ Năm Tuần Thánh, nghĩa là cho tới lúc cử thành thánh lễ Tiệc Ly vào ban chiều “in Caena Domini”,  trong đó Chúa lập Bí tích Thánh Thể, rửa chân cho 12 môn đệ và truyền lại Giới răn mới) (Thời gian 40 ngày cũng để nhớ lại 40 đêm ngày Maisen cầu nguyện trên Núi Sinai và được Chúa trao cho 10 Giới răn. Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của Tiên tri Elia, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của  Hoàng hậu Gezabele,  để tiến về Núi Oreb (cũng là núi Sinai, kế Biển Ðỏ và Kênh đào Suez), nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1 Vua 19),

Trong ba thế kỷ đầu, Mùa Chay chỉ kéo dài hai hay ba ngày, sau đó kéo dài từ ba đến bốn tuần. Con số bốn mươi được áp dụng do quy định của Công Đồng Nicaea (325). Ngoại trừ những ngày Chúa Nhật, Giáo Hội đề nghị các tín hữu nên ăn chay theo luật định. Toàn thời gian Mùa Chay cũng là thời gian chuẩn bị tâm hồn cho cuộc khổ nạn, chịu chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Trong Mùa Chay không được kết hôn, Linh mục mặc áo màu tím, không có kinh Vinh Danh và Alleluia trong Thánh lễ. Không đệm đàn khi không có tiếng hát. Không trưng bông trên bàn thờ. Mỗi ngày có Thánh lễ với những lời mở đầu Mùa Chay khác nhau. Trong thời gian này, Giáo Hội chuẩn bị cho biến cố trung tâm của lịch sử, sự Cứu Chuộc nhân loại của Chúa Giêsu Kitô.

 

chay1

Công Đồng Vaticanô thứ hai dạy rằng :” Mùa Chay có hai đặc tính :1/ Hồi tưởng lại bí tích rửa tội hoặc là chuẩn bị cho bí tích này. 2/Nhấn mạnh đến tinh thần ăn năn, sám hối. Bởi những ý nghĩa đặc biệt này, mùa Chay chuẩn bị cho các tín hữu sẳn sàng cử hành mầu nhiệm vượt qua sau thời gian tiếp cận, gần gũi hơn với Lời Chúa và nồng nhiệt hơn trong s cầu nguyện. Trong chính bản thân phụng tự và trong những hướng dẩn từ trung tâm của phụng tự, những chủ đề về rửa tội và thống hối được tuyên b cách sâu sắc hơn” (SC 109).

“..Hằng năm qua bốn mươi ngày của Mùa Chay, Giáo Hội hiệp thông với mầu nhiệm của Chúa Giêsu trên hoang địa” (GLGHCG 540)

Vì thế tinh thần Mùa Chay là làm cho nội tâm cũng như hành động của mỗi cá nhân liên hệ đến phụng tự của Giáo Hội nhiều hơn và các tín hữu đáp trả nhiều hơn đối với sứ điệp và sự dạy dỗ của Chúa Kitô. Do đó Giáo Hội kêu gọi các tín hữu hảy hăng hái hy sinh, hãm mình, làm việc bác ái, cầu nguyện và làm việc Tông đồ trong Mùa Chay Thánh.

chay2