TÀI LIỆU
Chiến dịch ‘40 Ngày Vì Sự Sống’ bắt đầu kêu gọi cầu nguyện và ăn chay nhằm chấm dứt vấn nạn phá thai

Chiến dịch ‘40 Ngày Vì Sự Sống’ đang mời gọi tất cả mọi người tham gia 40 ngày cầu nguyện trong Mùa Chay nhằm chấm dứt vấn nạn phá thai bắt đầu từ ngày 14 tháng Hai.
Theo trang web của nhóm, chiến dịch quốc tế kéo dài 40 ngày nhằm mục đích chấm dứt vấn nạn phá thai tại địa phương thông qua cầu nguyện và ăn chay, tiếp cận cộng đồng và các buổi cầu nguyện ôn hòa cả ngày bên ngoài các cơ sở phá thai.
Bắt đầu từ ngày 14 tháng 2, đầu Mùa Chay và kết thúc vào ngày 24 tháng 3, Chúa Nhật Lễ Lá, các cá nhân có thể tham gia các buổi cầu nguyện diễn ra bên ngoài các cơ sở phá thai tại các cộng đồng địa phương của họ.
Chiến dịch này nhằm mục đích mời gọi những người tham gia tổ chức các buổi cầu nguyện không ngừng nghỉ, suốt ngày đêm, trong khoảng thời gian 40 ngày, 960 giờ.
“Đó là một sự hiện diện ôn hòa và mang tính giáo dục. Những người được kêu gọi làm chứng trong sự hiện diện 24 giờ một ngày này sẽ gửi đi một thông điệp mạnh mẽ đến cộng đồng về thực tại bi thảm của vấn nạn phá thai. Nó cũng phục vụ như một lời kêu gọi thống hối ăn năn đối với những người làm việc tại trung tâm phá thai và những người bảo trợ cơ sở này”, trang web nêu rõ.
‘40 Ngày Vì Sự Sống’ đã phát động chiến dịch phối hợp toàn quốc lần đầu tiên vào năm 2007 và tiếp cận 89 thành phố ở 33 tiểu bang. Hiện nay, chiến dịch này đã có mặt ở hơn 1.000 thành phố ở 63 quốc gia và tuyên bố đã cứu sống hơn 20.000 thai nhi.
Ngoài ra, chiến dịch đã khiến gần 150 cơ sở phá thai bị đóng cửa và hơn 200 nhân viên phá thai bỏ việc, theo Abby Johnson, một trong những diễn giả và người ủng hộ việc bảo vệ sự sống nổi tiếng nhất.
Trong suốt chiến dịch ‘40 Ngày Vì Sự Sống’, các cá nhân, các nhà thờ, gia đình và các nhóm được yêu cầu tham gia cầu nguyện theo những ý chỉ cụ thể mỗi ngày và được khuyến khích ăn chay.
Quý vị có thể theo dõi buổi cầu nguyện ‘40 Ngày Vì Sự Sống’ ở địa phương tại đây.
Minh Tuệ (theo CNA)
QUYỀN PHÁ THAI LÀ GÌ? TỪ ĐÂU VÀ DO AI CHO?
Tiến sỹ Tâm lý Trần Mỹ Duyệt
Xã hội ngày nay, trong phần lớn các quốc gia là một xã hội của nền dân chủ pháp trị. Phong trào nữ quyền, một phong trào nhằm thay đổi xã hội và đời sống của phụ nữ theo chiều hướng tích cực, phát xuất từ Hoa Kỳ thập niên 1960 và 70 đòi hỏi bình quyền và những cơ hội và sự tự do hơn cho nữ giới. Nó được coi và xem như “con sóng thứ nhì” chủ nghĩa nữ quyền. Trong khi con sóng thứ nhất bắt đầu từ thế kỷ thứ 19 và tiền bán thế kỷ thứ 20 chủ tâm vào những quyền pháp lý của phụ nữ, đặc biệt quyền được bỏ phiếu, con sóng chủ nghĩa nữ quyền thứ hai cuốn theo nhiều lãnh vực thực tế hơn của phụ nữ, bao gồm chính trị, công ăn việc làm, gia đình, và tình dục. Tiếp nối là những con sóng thứ ba và thứ tư từ giữa thập niên 1990 và đầu năm 2010 của cơn hồng thủy chủ nghĩa nữ quyền, dẫn đến những quan niệm cực đoan, chủ nghĩa cá nhân đầy phóng túng, bất cập.
Một trong những quyền đi liền với quyền tự do tình dục là quyền tự do phá thai! Và quyền này hiện đang được chủ nghĩa nữ quyền đề cập đến tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo đó, quyền phá thai được quan niệm là một phần trong nhân quyền. Những đại diện, những người có trách nhiệm dân cử mà từ chối các phụ nữ, các thiếu nữ, hoặc những ai đang mang thai mà muốn phá thai là một hình thức kỳ thị và đi ngược lại hệ thống nhân quyền.
Nhưng phá thai là gì? Phụ nữ có cần phải đòi cho được quyền này hay không? Quyền phá thai có đi ngược với quyền được sống của thai nhi? Nữ quyền có xâm phạm đến quyền sống của một con người đang phát triển trong cơ thể của mình không? Và ai có quyền cho phép phá thai?
PHÁ THAI LÀ GÌ?
Phá thai theo nghĩa dùng trong y khoa là sự kết thúc một thai kỳ bằng cách loại bỏ hoặc lấy phôi, hay bào thai khỏi tử cung trước khi đến hạn kỳ sinh nở. Hành động này có thể xảy ra một cách có chủ đích, hoặc có thể xảy ra một cách không chủ đích.
Trong lịch sử, tranh cãi về phá thai có chủ đích đã là một chủ đề gây tranh luận lớn, trong đó có liên quan đến các vấn đề chủng tộc, đạo đức, triết học, sinh học và pháp lý. Các quan điểm về phá thai có thể miêu tả như là một sự tổng hợp giữa đạo đức xã hội, trách nhiệm, phạm vi cá nhân và phạm vi quyền lực của chính phủ trong chính sách công.
Kết quả các cuộc tranh luận về phá thai thường dẫn đến việc hợp pháp phá thai cũng như các luật lệ về phá thai. Nói chung, bên phản đối cho rằng phôi thai là một con người với quyền được sống, phá thai là hành động giết người. Bên ủng hộ cho rằng phụ nữ có một số quyền về sinh sản, trong đó đặc biệt là quyền lựa chọn có hay không hoàn thành một thai kỳ.
Từ ngữ phá thai chủ yếu nhắc tới trường hợp phá thai có chủ đích. Trường hợp vì tai nạn hay biến cố y khoa mà phôi thai hay bào thai bị loại bỏ gọi là sẩy thai. Do đó, phá thai tự do lựa chọn hay tự nguyện là khi nó được thực hiện theo yêu cầu của người phụ nữ mà không có các lý do y tế phụ thuộc. Sẩy thai là một hình thức phá thai không có chủ đích đối với một phôi thai hay bào thai trước tuần tuổi thứ 20 tới 22. Thai nhi chết trong tử cung sau khi đã hình thành, hay trong khi sinh gọi là “thai chết lưu”. Thống kê cho thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 73 triệu vụ phá thai, 61% trường hợp này là mang thai ngoài ý muốn, và 29% trường hợp thai nhi có bệnh lý hoặc dị tật buộc phải chấm dứt thai kỳ. [1]
Ngoài ra trong nhiều trường hợp đặc biệt, như khi siêu âm và những phương pháp chuyên môn khác như phân tích nước ối, khảo sát nhau (Chorionic villus sampling and amniocentesis) … phát hiện thai nhi mang hội chứng Trisomy 14, Anencephaly…, hoặc bào thai có hại cho sức khỏe và nguy hiểm tính mạng người mẹ, hoặc những trường hợp mang thai vì bị hiếp dâm, loạn luân, phá thai trong những trường hợp này là một lựa chọn vô cùng khó khăn, đòi hỏi những nghiên cứu chuyên môn về y khoa, cũng như những hướng dẫn tinh thần khôn ngoan.
Lý do phá thai
Các lý do thông thường đưa đến quyết định phá thai đa số thuộc yếu tố kinh tế. Tài chính gia đình không đủ để có thêm một người con. Tiếp theo là sức ép xã hội như cha mẹ độc thân, công ăn việc làm, tiếp tục học hành, cơ hội tiến thân, sắc đẹp phụ nữ, hẹn hò trai gái, hiếp dâm, hoặc loạn luân. Ngoài ra còn có những lý do chính trị như nhằm nỗ lực kiểm soát dân số như chính sách một con của Trung Quốc, chính sách hai con của Việt Nam: “Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ!” Chọn lựa trẻ em theo phái tính, trong đó cha mẹ qua việc phá thai để lựa chọn giới tính hay loại bỏ con gái. Hoặc tìm kiếm số phiếu của thành phần cử tri ủng hộ phá thai, phong trào nữ quyền quá khích. Sau cùng là sức khỏe của người mẹ.
Một kết quả khảo cứu khác cho thấy nguyên nhân và xác suất phá thai như:
-Hiếp dâm và loạn luân: 0.4%
-Nguy hiểm đe dọa tính mạng người phụ nữ hoặc những lý do quan trọng về cơ thể: 0.3%
-Những lý do liên quan đến sức khỏe người phụ nữ: 2.2%
–Thai nhi dị tật, dị hình: 1.2%
-Tự do và không có những lý do đặc biệt: 95.9%
Một cách tổng quát, những loại trừ thông thường đối với những giới hạn phá thai được ước tính dưới hơn 5% trong tất cả các trường hợp phá thai. [2]
Xã hội và văn hóa
Do những nhu cầu đòi hỏi và được đẩy mạnh của phong trào nữ quyền, phá thai đang là một hiện tượng nổi bật tại hầu hết các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia tiên tiến và dân chủ. Theo các nhà hoạt động nữ quyền, lựa chọn phá thai là quyền của mỗi cá nhân người phụ nữ. Nó đáng được tôn trọng và không ai có quyền chỉ trích, phê bình hay kết án. Chủ đề phá thai đang trở thành đề tài gây tranh cãi hiện nay trong cuộc bầu cử của Hoa Kỳ.
Hiện nay trên thế giới, tại nhiều nước, phá thai không còn thực hiện một cách lén lút, nhưng nó đã trở thành công khai và được pháp luật bảo vệ. Những người theo thuyết nữ quyền thường đưa ra khẩu hiệu “Cơ thể tôi là của tôi” nhằm khẳng định quyền tự quyết của họ. Những phụ nữ này đòi quyền tự làm chủ bản thân mình, trong đó nhấn mạnh đến quyền sinh sản, và đặc biệt là quyền được phá thai. Họ cho rằng đây là nền tảng tiến bộ của người phụ nữ.
Một cái nhìn tổng quát về phá thai tính đến thời điểm 2024. Trong khi phong trào ủng hộ phá thai biến đổi không ngừng trong hai thập niên qua, hiện tại có 63% chủ trương phá thai nên được hợp pháp trong tất cả mọi tình huống, trong khi 36% cho rằng chỉ nên hợp pháp trong tất cả hoặc hầu hết các trường hợp.
Trong số ¾ những người Tin Lành Evangelical da trắng (White evangelical Protestants) tức 73% cho rằng phá thai nên hợp pháp trong tất cả hoặc hầu hết các trường hợp. Trong khi đó ngược lại 86% những người Mỹ không gần gũi với tôn giáo cho rằng phá thai nên được hợp pháp trong tất cả hoặc hầu hết các trường hợp, cũng như 71% những người Tin Lành da màu, 64% những người Tin Lành Nonevangelical da trắng (White nonevangelical Protestants) và 59% người Công Giáo.
Về phương diện phái tính, phần đông cả hai phái 61% đàn ông và 64% đàn bà bày tỏ ủng hộ hợp pháp phá thai. [3]
Hậu quả của phá thai
Phá thai, theo nguyên tắc phải được thực hiện tại những cơ sở theo quy định pháp lý một cách hợp pháp, và bằng những kỹ thuật an toàn. Dầu vậy, vẫn có những vụ phá thai không an toàn được thực hiện bởi những người không được đào tạo chuyên môn hay bên ngoài một cơ sở y tế. Thống kê cho biết:
-Sáu trong mười trường hợp thụ thai ngoài ý muốn đã kết thúc bằng việc phá thai.
-Phá thai là một trong những phương pháp an toàn khi thực hiện đúng các chỉ dẫn của y khoa được khuyến cáo bởi WHO, vào những thời điểm thích hợp và do những người được huấn luyện chuyên môn.
-Tuy nhiên, có khoảng 45% các trường hợp phá thai là không an toàn. [4]
QUAN NIỆM VỀ PHÁ THAI
Trong lịch sử, phá thai có chủ đích đã là một chủ đề từng gây nhiều tranh luận. Một quan điểm có liên quan đến các vấn đề chủng tộc, tôn giáo, đạo đức, triết học, tâm lý, sinh học, y khoa, và pháp lý phức tạp của xã hội.
Trong các cuộc tranh luận dù công khai hay không công khai, các lý lẽ được đưa ra ủng hộ hay phản đối tập trung vào việc có cho phép, về mặt đạo đức, thực hiện một ca phá thai có chủ đích không, hay sự biện minh cho các luật pháp cho phép hay hạn chế việc phá thai. Về lãnh vực tâm linh, rõ ràng và đặc biệt nhất là quan điểm đạo đức theo Kitô giáo.
Điều 1398 trong bộ giáo luật 1983 của Giáo Hội Công Giáo quy định rằng: “người nào thi hành việc phá thai có hiệu quả thì bị vạ tuyệt thông tiền kết.” Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Vì vậy, với quyền bính được Chúa Kitô trao cho Phêrô và những người kế vị, trong sự hiệp thông với tất cả giám mục của Giáo Hội Công Giáo, tôi xác nhận rằng việc trực tiếp và cố ý giết một người vô tội luôn luôn là điều vô luân nghiêm trọng. Giáo lý này căn cứ vào luật bất thành văn mà mọi người nhận thấy trong thâm tâm của mình dưới ánh sáng của lý trí (x. Rm 2, 14-15), được Thánh Kinh khẳng định và Truyền Thống Giáo Hội lưu truyền và được Huấn Quyền thông thường và phổ quát giảng dạy.”
Như thế, bất kỳ người Công Giáo nào cho rằng phá thai là không vô luân đều mang tội lạc giáo và phải gánh chịu vạ tuyệt thông tiền kết. Người cổ vũ cho việc phá thai thuộc vào tội đồng lõa. Những ai cổ vũ cho việc phá thai như tuyên truyền, phát thuốc, quảng cáo, tung ra phim ảnh, ủng hộ luật phá thai hợp pháp… thì cũng đều mang tội trọng và lãnh án vạ tuyệt thông tiền kết.
Một chính trị gia Công Giáo tham gia vào việc soạn thảo luật cho phép phá thai hay lên tiếng giữa dân chúng rằng mình ủng hộ chính sách phá thai thì cũng chịu cùng một tội và vạ trên. Khi một người bỏ phiếu tín nhiệm một quan chức ủng hộ phá thai thì người ấy được kể là kẻ đồng phạm và cũng mang vạ tuyệt thông tiền kết. Họ tự mình tách ra khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội.
Đối với Phật Giáo, phá thai là một hành động tiêu cực và không nên để xảy ra. Phật giáo quan niệm sự sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Phá thai tạo nghiệp xấu cho cả người mẹ và bào thai. Nghiệp xấu cho người mẹ là hành động sát sinh, đặc biệt đây lại là đứa con mình thai nghén nên. Nghiệp xấu cho bào thai là bị đánh mất một cơ hội được tái sinh làm người.
Dưới cái nhìn về luân hồi, mang thai là một sự việc thiêng liêng, và sự ra đời của một con người là một cơ hội hiếm quý. Với Phật Giáo, việc phá thai gây ra một ác nghiệp và người nạo phá thai sẽ phải nhận lãnh quả báo đọa địa ngục Vô Gián.[5]
AI CHO QUYỀN PHÁ THAI
Thật ra những người chủ trương phá thai, những người ủng hộ phá thai, và những người phá thai cứ tưởng rằng phá thai là quyền được hiến pháp bảo đảm và như vậy phá thai là hợp pháp. Tuy nhiên, ngày 24 tháng 6 năm 2022, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã ra phán quyết vô hiệu hoá phán quyết Roe vs Wade năm 1973 và trao trả quyền quyết định phá thai cho quốc hội tiểu bang, tức người dân của mỗi tiểu bang sẽ trực tiếp bỏ phiếu hồ sơ này. Vậy, chính mỗi một người sẽ phải đối diện với lương tâm để suy xét cẩn trọng xem lý do chính đáng nào khiến họ quyết định giết một thai nhi vô tội. Họ sẽ phải tự hỏi họ nhân danh cái gì để hủy diệt sự sống mà họ không thể tạo ra, bởi lẽ sự sống của mỗi người chúng ta chính là một món quà vô giá của Thượng Đế.
Về phần mình, những người làm cha, làm mẹ nghe theo, chấp nhận những luật lệ này và cũng tự cho phép mình được phép giết hại con mình họ nghĩ thế nào? “Hổ dữ không ăn thịt con”. Lương tâm một con người, lương tâm người cha, người mẹ đồng ý phá thai để đâu? Họ có đủ lý do để bào chữa khi đứng trước Đấng là chủ sự sống để nói rằng, “Cơ thể tôi là của tôi”, tôi có quyền trên nó, và tôi có quyền phá thai?
Trong thâm tâm, tôi cũng không tin rằng những quan tòa, những thẩm phán, những nhà lập pháp, những chính trị gia ủng hộ và cho phép phá thai sẽ có đủ lý lẽ để bào chữa cho những đạo luật mà họ đã làm, đã bỏ phiếu, và đã ban hành để cho phép phá thai trước Đấng thông suốt hết mọi sự là Tạo Hóa muôn loài. Đấng đã phán: “Ngươi không được giết người.” (Exodus 20:13)
_______
Tài liệu tham khảo:
1.Wikipedia contributors. (2023, November 14). Abortion – Wikipedia.
https://en.wikipedia.org/wiki/Abortion)
2. https://lozierinstitute.org/fact-sheet-reasons-for-abortion/
3. https://www.pewresearch.org/religion/fact-sheet/public-opinion-on-abortion/
4. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/abortion

TẠI SAO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO PHẢN ĐỐI VIỆC PHÁ THAI?
Tác giả: Philip Kosloski
WHĐ (05.5.2022) – Giáo hội Công giáo dạy rằng phá thai là tội giết người. Đây là lý do chính khiến Giáo hội chống lại việc phá thai. Giáo hội Công giáo vẫn là một trong số ít những người lên tiếng phản đối việc phá thai trên thế giới, và chúng ta thường bị đặt nghi vấn về điều đó.
Tại sao Giáo hội Công giáo không ủng hộ việc phá thai?
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo đưa ra lý do chi tiết tại sao Giáo hội chống lại việc phá thai.
“Sự sống con người, ngay từ lúc tượng thai, phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối. Ngay từ giây phút bắt đầu hiện hữu, các thụ tạo nhân linh phải được nhìn nhận có các quyền lợi của một nhân vị, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi thụ tạo vô tội…
Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã khẳng định mọi vụ phá thai đều là tội ác luân lý. Giáo huấn đó không thay đổi. Giáo huấn đó vẫn luôn luôn không thể thay đổi. Việc phá thai trực tiếp, nghĩa là, hoặc được muốn như mục đích hoặc được muốn như phương tiện, đều trái ngược một cách nghiêm trọng với luật luân lý.” (Trích sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo số 2270, 2071)
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong Thông điệp Tin Mừng về sự sống: việc phá thai thường được xã hội gọi với những cái tên khác nhau để làm cho nó có vẻ không phải là giết người.
“Chính trong trường hợp phá thai, người ta tuân theo sự phát triển của một hệ thống thuật ngữ nhập nhằng nước đôi, như thuật ngữ “sự ngừng có thai” (hay “hút điều hòa kinh nguyệt” thường dùng ở Việt Nam), vốn hướng tới việc che dấu thực chất của nó và làm bớt tính nghiêm trọng của nó trong dư luận quần chúng. Có lẽ hiện tượng ngôn ngữ học này, chính nó là hội chứng của một sự bất ổn mà các lương tâm đã cảm nghiệm thấy. Nhưng không lời nào đạt đến kết quả thay đổi thực tại của cả sự việc: sự phá thai do cố ý gây ra, dù được thực hiện bằng cách nào, vẫn là việc giết chết, có suy nghĩ và trực tiếp, một con người trong giai đoạn đầu cuộc đời của nó, ở giữa sự thụ thai và sự sinh đẻ.”
Phá thai là lỗi phạm trực tiếp đến điều răn của Thiên Chúa “Chớ giết người”.
Đồng thời, trong khi chống lại việc phá thai, Giáo hội cũng cố gắng làm mọi thứ trong khả năng của mình để bảo vệ phụ nữ và hỗ trợ cho họ. Giáo hội không cho rằng phụ nữ nên bị bỏ rơi hoặc bị loại bỏ, nhưng gia đình nhân loại cần phải đón nhận tất cả phụ nữ và quan tâm đến họ khi họ gặp khủng hoảng.
Giáo hội phản đối việc phá thai không phải vì ghét phụ nữ, mà vì Giáo Hội tin rằng mọi mạng sống của con người cần được bảo vệ và việc giết người là sai trái.
Jos. Đăng Vũ
Chuyển ngữ từ: aleteia.org (4.5.2022)
LTS: Giáo Hội Công Giáo Hội đủ điều kiện để lên tiếng một cách có thẩm quyền về vấn đề phá thai. Điều này, như Đức Gioan Phaolô 2 đã dạy rõ, là ưu tiên số một của Tư Tưởng Xã Hội Công Giáo ngày nay — và tất yếu phải được diễn tả không phải chỉ như tư tưởng xã hội, mà còn bằng hành động xã hội nữa. Xin giới thiệu bài viết của Linh mục Thomas D. Williams, Khoa trưởng Thần Học và giáo sư môn Học Thuyết Xã Hội Công Giáo tại Đại Học Nữ Vương các Thánh Tông Đồ tại Roma.
***
Khi lần đầu tiên cầm trên tay cuốn Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nhiều tháng trước khi sách được phát hành rộng rãi năm 2004, tôi cảm thấy một sự ngạc nhiên thích thú khi đọc đoạn văn đề cập cụ thể và kết án thẳng thừng nạn phá thai trong ngữ cảnh bàn về các quyền con người và cả ở đề tài gia đình là cung thánh của Sự Sống. Sự kiện bất nhất là chủ đề phá thai thường được xem là nằm ngoài môn Học thuyết Xã hội Công Giáo được giảng dạy tại hầu hết các Chủng Viện và các Đại Học Công Giáo.
Điều này phần lớn do các thông điệp xã hội, khởi đầu với thông điệp thời danh Rerum Novarum (Tân Sự) năm 1891 của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, tương đối ít đề cập đến vấn đề phá thai. Trong toàn bộ chín thông điệp xã hội, từ “phá thai” xuất hiện chỉ bốn lần, không lần nào vấn đề được đề cập rốt ráo.
Một phần, sự im lặng này là do chỉ tương đối gần đây thôi, phá thai mới xuất hiện như vấn đề luân lý trên diện rộng. Với sự phát triển khả năng giết người cũng như cứu người của y khoa, con số ca phá thai đã lên đến mức báo động trong bốn thập niên qua. Do đó, lần đầu tiên phá thai được đề cập đến trong một thông điệp xã hội là vào năm 1971 với Tông Thư Octogesima Adveniens (Năm thứ tám mươi) của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Ở đây Đức Phaolô nhắc đến việc phá thai trong ngữ cảnh các giải pháp Malthus cho vấn đề thất nghiệp (số 18).
Một phần khác nữa, sự im lặng phản ánh sự hiểu biết phổ biến phá thai như vấn đề đạo đức y khoa hơn là vấn đề công bằng xã hội, lĩnh vực chính của tư tưởng xã hội Công Giáo. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người thực tế đã xoay chiều tình huống, mạnh mẽ đưa vấn đề phá thai vào trong Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo.
Trong Thông Điệp Evangelium Vitae (Phúc Âm Sự Sống) năm 1995 ngài đề cập đến vấn đề một cách toàn diện, đặt vấn đề vào trong nội dung công bằng xã hội. Khi bắt đầu thảo luận về tính trầm trọng của những cuộc tấn công chống lại Sự Sống ngày nay, đặc biệt là việc phá thai, Đức Gioan Phaolô rõ ràng gợi ta nhớ đến thông điệp Rerum Novarum và ngài đã so sánh các vấn đề Sự Sống ngày nay với vấn đề công nhân thời Đức Lêô:
Cách đây một thế kỷ chính các công nhân mới là giai cấp bị áp bức về các quyền cơ bản của mình, điều Hội Thánh bảo vệ họ một cách rất can đảm bằng cách tuyên bố các quyền thiêng liêng của công nhân với tư cách là một con người, cho nên bây giờ, khi một loại người khác đang bị áp bức về quyền cơ bản đối với Sự Sống, Hội Thánh cảm thấy có nhiệm vụ phải nói thẳng cũng với sự can đảm đó thay cho những ai không có tiếng nói. Tiếng kêu của Hội Thánh luôn luôn là tiếng kêu Phúc Âm bảo vệ những người nghèo trên thế giới, những người bị đe dọa và khinh miệt và bị vi phạm các quyền con người (số 5).
Đoạn văn này, từ những trang đầu tiên của Evangelium Vitae đóng khung toàn bộ câu hỏi về phá thai theo Giáo Huấn của Hội Thánh. Nếu thông điệp năm 1891 của Đức Lêô XIII tập chú vào số phận giai cấp công nhân là giai cấp xã hội cần nhất đến sự bảo vệ can trường vào lúc đó, thì sự chú ý của Huấn Quyền xã hội ngày nay nên chuyển sang lớp mới những người bị áp bức này. Đức Gioan Phaolô II nói tiếp:
“Ngày nay có muôn vàn con người yếu đuối, không phương tiện tự vệ, bị coi rẻ trong quyền căn bản được sống còn, đặc biệt là trường hợp các hài nhi sắp được sinh ra. Nếu vào cuối thế kỷ trước Giáo Hội không được im lặng trước những bất công ở thời đó, thì ngày nay Giáo Hội càng không thể im lặng, khi mà cùng với những bất công, lại tăng thêm, trên nhiều miền ở khắp thế giới, những bất công và những hiện tượng áp bức còn nặng nề hơn, đôi khi được trình bày như là những yếu tố của tiến bộ nhằm tổ chức trật tự thế giới mới” (số 5).
TẠI SAO PHÁ THAI ĐÁNG CHÚ Ý MỘT CÁCH ĐẶC BIỆT TRONG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO?
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 thấy rằng phá thai là một vấn đề đạo đức và xã hội mang tính tượng trưng và đặc thù, đáng được sự tập trung chú ý trong tư tưởng xã hội Công Giáo. Để diễn tả tính đặc thù của việc phá thai với tính cách một vấn đề về công bằng xã hội, đây là sáu đặc điểm phân biệt phá thai với các hiện tượng xã hội có liên quan:
1/. Phá thai liên quan cụ thể đến vấn đề hủy diệt Sự Sống vô tội. Điều này phân biệt việc bàn về phá thai với các đề tài có liên quan khác. Ta không bàn về việc giết kẻ địch, như trong chiến tranh, hoặc những kẻ sát nhân đã bị kết án, như trong trường hợp hình phạt tử hình, vị Hồng Y lúc đó là Joseph Ratzinger vào tháng 6 năm 2004 đã viết: “Có thể có một số sự khác biệt chính đáng về ý kiến ngay cả trong số những người Công Giáo về việc tiến hành chiến tranh và áp dụng hình phạt tử hình, nhưng tuy nhiên đối với vấn đề phá thai và an tử thì không”. Mặc dù mọi Sự Sống đều quý giá, thần học luân lý đã luôn luôn phân biệt việc hủy diệt “Sự Sống vô tội” là đặc biệt xấu và luôn luôn đáng phải lên án ở bất kỳ nơi đâu. Không ai có thể “trong bất kỳ trường hợp nào, tự biện minh cho mình quyền hủy diệt trực tiếp một sinh mạng vô tội” (Bộ Giáo lý Đức Tin, Donum Vitae, 76-77).
Không ai vô tội hơn và vô phương tự vệ cho bằng một trẻ em chưa sinh.
2/. Một nhân tố khác phân biệt phá thai với tính cách một hiện tượng xã hội chính là biên độ của vấn đề: hàng năm ước có khoảng 46 triệu ca phá thai được thực hiện trên thế giới, một con số tự bản thân nó đã khiến cho phá thai trở thành một vấn đề xã hội với những tỷ lệ làm ta thảng thốt. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô viết: “Nhân loại thời nay bày ra một cảnh tượng thật sự đáng báo động nếu chúng ta xem xét không những mức độ ác liệt của những cuộc tấn công tràn lan đối với Sự Sống mà còn ở quy mô chưa từng nghe thấy về số lượng những cuộc tấn công” (Evangelium Vitae, số 17).
Một vụ giết người đơn độc có thể là một vấn đề xã hội, nhưng là một vấn đề xã hội có giới hạn. Một kẻ giết người hàng loạt thì gây ra một vấn đề xã hội nghiêm trọng hơn. Nhưng các vụ giết người mỗi năm lên đến hàng triệu người đòi hỏi phải có hành động ngay lập tức và quyết liệt. Số lượng các vụ phá thai nêu bật tính xã hội của vấn đề, và làm cho phá thai trở thành một trong những vấn đề công bằng xã hội nghiêm trọng nhất của mọi thời.
3/. Một nhân tố thứ ba phân biệt phá thai với các vấn đề công bằng khác là tính pháp lý của nó. Không giống với các trường hợp giết Sự Sống con người hàng loạt khác, như khủng bố hoặc giết người hàng loạt, rõ ràng là bị liệt ra ngoài vòng pháp luật tại các nước tiên tiến, phá thai được hưởng sự miễn trừ pháp lý. Phá thai hủy diệt Sự Sống con người một cách có hệ thống, hợp vệ sinh, hợp pháp.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã viết về tính mới mẻ của “những đe dọa được lập trình một cách khoa học và có hệ thống” (Evangelium Vitae, số 17). Sau này, ngài có nhận xét về tính đặc thù của phá thai là một quyền pháp lý.
Sau khi liệt kê hàng loạt các đe dọa khủng khiếp đối với Sự Sống con người, như nạn suy dinh dưỡng, chiến tranh và nạn buôn bán vũ khí, ngài tương phản các đe dọa này với một loại đe dọa mới đối với Sự Sống. Chẳng những các cuộc tấn công đối với Sự Sống không còn bị xem là tội ác, nhưng, ngài viết “chúng mặc lấy một cách nghịch lý tính chất “các quyền”, đến nỗi người ta đòi hỏi Nhà Nước cho họ được sự nhìn nhận hợp pháp và thực hiện các quyền đó thông qua các dịch vụ miễn phí do các nhân viên chăm sóc sức khỏe tiến hành” (Evangelium Vitae, số 11).
4/. Khía cạnh mang tính phân biệt thứ tư của phá thai là sự phân chia tùy tiện con người thành những người đáng sống và những người không đáng sống. Phá thai không phải giết bừa những cá nhân không có liên hệ mà là với sự khoanh vùng cả một lớp mới những con người (chưa sinh) như những phi-nhân-vị (non-persons), bị loại trừ khỏi các quyền và sự bảo vệ cơ bản được dành cho tất cả các con người khác. Bằng cách này, phá thai bắt chước các đại thảm kịnh lịch sử của mọi thời, luôn luôn bắt đầu bằng cách vu vạ cho cả một lớp người là không đáng sống hay đáng được tự do.
Về mặt lịch sử, các tội ác xã hội lớn nhất đối với nhân loại – nạn diệt chủng, tệ phân biệt chủng tộc, phá thai, chủ nghĩa bài Do Thái, phân biệt giới tính, nạn nô lệ – đã luôn luôn vi phạm nguyên tắc bình đẳng, đưa toàn bộ một bộ phận của gia đình nhân loại xuống một vị trí thấp hơn với một phẩm giá nằm dưới những người còn lại. Vì nhân quyền xuất phát từ nhân phẩm, nên một khi phẩm giá bị đặt vấn đề thì các quyền bình đẳng cũng đành chịu chung một số phận.
Nếu nhân phẩm tùy thuộc vào một cái gì đó không phải là địa vị thành viên nhân loại – cho dù cái đó có là trí thông minh, khả năng thể thao, vị trí xã hội, chủng tộc, tuổi tác, hoặc sức khỏe – ta ngay lập tức thấy như thế là đã phân biệt ra hai hạng người: những người có thế giá và những người không. Như Đức Gioan Phaolô đã viết:
“Làm sao còn nói được tới phẩm giá của nhân vị, khi người ta giết những kẻ yếu nhất và vô tội nhất ? Nhân danh công lý nào mà người ta thực hiện sự kỳ thị đến mức bất công đối với những con người như thế, bằng cách tuyên bố rằng một số những người này đáng được bảo vệ, còn những người kia thì bị từ chối quyền sống?” (Evangelium Vitae, số 20).
5/. Phá thai còn tự phân biệt khỏi các vấn đề khác về y đức, như an tử và giúp người khác tự tử, bởi sự thiếu vắng khả năng có sự đồng ý được thông báo. Tình trạng của người chưa sinh là người không có tiếng nói và hầu như vô phương tự vệ, như vậy đây là một chiều kích cần thêm vào các cuộc thảo luận về tính luân lý và sự nghiêm trọng của việc phá thai. Ở đây phạm trù đạo đức sinh học gọi là “quyền tự chủ” không thể áp dụng được, vì trẻ chưa sinh không có cách nào tự lên tiếng được.
6/. Cuối cùng, phá thai không giống các tệ nạn xã hội chủ yếu khác như thất nghiệp và ly dị bởi vì tính vô hình tương đối của nó. Không những chính các nạn nhân không có tiếng nói mà những ai có lợi ích từ việc phá thai không hề mảy may lên tiếng trước công chúng; nói chung, các bà mẹ và các gia đình là nạn nhân thứ hai của việc phá thai cũng không lên tiếng. Ngay cả các nhà lập pháp cũng thận trọng về những cuộc thảo luận thẳng thắn về hiện tượng phá thai, còn quảng cáo để bảo vệ Sự Sống thì bị cấm tại hầu hết hệ thống truyền hình.
Phá thai diễn ra đằng sau những cánh cửa đóng kín, và không được đưa ra trước công chúng. Như trong trường hợp nô lệ, việc chấm dứt tình trạng bất công xã hội của việc phá thai chủ yếu tùy thuộc vào lòng can đảm và sự sẵn lòng lên tiếng của những con người và các tổ chức không trực tiếp can dự vào việc phá thai.
SỰ ĐÓNG GÓP CỤ THỂ CỦA CÁC TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CÔNG GIÁO TRONG VẤN ĐỂ PHÁ THAI
Tư tưởng Xã Hội Công Giáo đề ra hai yếu tố cần phân biệt trong cuộc tranh luận về phá thai.
Trước hết, nó đặt ra nhịp cầu giữa thần học luân lý và việc thảo luận công khai. Trong kinh nghiệm lâu dài xử lý các vấn đề xã hội, Hội Thánh không những đã tìm cách trình bày chân lý Kitô giáo trong tất cả sự phong phú của chân lý, nhưng còn tìm cách ảnh hưởng đến các Kitô hữu và mọi người thiện chí trong việc xây dựng một nền văn minh công lý và tình yêu.
Nhằm mục đích này, Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo thường sử dụng từ vựng luật tự nhiên hướng đến tất cả những người thiện chí, và đưa ra những lập luận có sử dụng các khái niệm và cách cấu tạo dễ tiếp cận có thể đem ra thảo luận về luân lý trong một môi trường trong đó người ta không công khai tuyên xưng các xác tín chung (a non-confessional environment).
Thứ hai, có lẽ hơn bất kỳ định chế nào trên thế giới, Hội Thánh trong Giáo Huấn Xã Hội của mình đã phát triển một số các nguyên tắc nhằm giải đáp các vấn đề luân lý phức tạp trong xã hội.
Vì các tình huống mới phát sinh từ khung cảnh chính trị-xã hội đang thay đổi nhanh chóng, cho nên Hội Thánh đã cho thấy sự uyển chuyển đáng khâm phục trong việc thích ứng với các tình thế mới trong khi vẫn đang bảo vệ phẩm giá chính yếu của nhân vị và gia đình.
Một trường hợp điển hình là lập trường ưu tiên chọn lựa người nghèo của Hội Thánh, một nguyên tắc Phúc Âm, chủ ý nhấn mạnh vào và chú ý đến những người đang cần trợ giúp nhất. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi đó là “một hình thức đặc biệt của việc ưu tiên thực hiện bác ái Kitô Giáo” ảnh hưởng trên cuộc sống mọi Kitô hữu (Sollicitudo Rei Socialis – Thông điệp Quan tâm đến các Vấn đề xã hội, số 42).
Trong nhiều dịp, Huấn Quyền đã giải thích rõ là “người nghèo” muốn nói ở đây không phải là một giai cấp xã hội, hoặc chính là những người chịu sự thiếu thốn vật chất, nhưng bao gồm những người chịu mọi nỗi khốn cùng và túng quẫn. Ta đọc trong sách Giáo Lý: “Sự khốn cùng này đã khiến Ðức Kitô chạnh lòng thương xót và mang lấy thân phận khốn cùng của con người và tự đồng hóa với người bé nhỏ trong các anh em” (số 2448).
Như một người mẹ tuy dành nhiều thời gian và sức khỏe cho một đứa con đang bị bệnh, nhưng không vì lý do đó mà yêu thương những đứa con khác ít đi, các Kitô hữu được kêu gọi tập trung các nỗ lực để ưu tiên dành cho những người túng thiếu và vô phương tự vệ nhất trong chúng ta. Áp dụng nguyên tắc này vào xã hội đương thời, thì bất công xã hội đang kêu gào lớn nhất đối với lương tâm Kitô hữu, vì các lý do đã nêu, lại là cuộc tấn công có chủ đích và trên diện rộng nhắm vào những thành viên yếu đuối nhất của xã hội, là những trẻ chưa sinh.
Trong truyền thống đáng kính đứng lên bảo vệ những thành viên vô phương tự vệ nhất của xã hội, Giáo Hội Công Giáo Hội đủ điều kiện để lên tiếng một cách có thẩm quyền về vấn đề phá thai. Điều này, như Đức Gioan Phaolô Vĩ Đại đã dạy rõ, là ưu tiên số một của Tư Tưởng Xã Hội Công Giáo ngày nay — và tất yếu phải được diễn tả không phải chỉ như tư tưởng xã hội, mà còn bằng hành động xã hội nữa.